
Góc biếm họa số 10 (2025)

Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn cuốn sử “Đại Nam Nhất Thống Chí” ghi chép về Thái Nguyên vào thời vua Tự Đức (1848 - 1883). Nhiều cứ liệu tỉnh Thái Nguyên từ đời vua Hùng Vương được các sử gia ghi chép truyền lại cho hậu thế nguồn sử liệu quý giá. Năm 1900 toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách một phần đất thuộc tỉnh Thái Nguyên thành lập tỉnh Bắc Kạn. Năm 1965 Thái Nguyên và Bắc Kạn sáp nhập thành tỉnh Bắc Thái. Từ năm 1997 (Nghị quyết của Quốc hội ký ngày 6 tháng 11 năm 1996) lại tách ra thành tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Nhân dịp sáp nhập tỉnh, chúng ta cùng nhìn lại để thấy người xưa đã rất tinh tường trong việc phận định cương thổ và dựa vào thế đất giữ gìn bờ cõi, hội tụ, bồi đắp nguyên khí, xây dựng quốc gia hưng thịnh.
Thái Nguyên – miền đất địa linh, an nhiên
“Thái Nguyên” là từ Hán Việt, Thái có nghĩa là to lớn hay rộng rãi, Nguyên có nghĩa là cánh đồng hoặc chỗ đất rộng, bằng phẳng. Các nhà nghiên cứu cho rằng Đại Nam nhất thống chí đời vua Tự Đức là bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ nhất thời phong kiến. Không chỉ riêng về địa lý, Đại Nam nhất thống chí bao quát cả về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn học nghệ thuật, phong tục tập quán, tín ngưỡng của cộng đồng các dân tộc.
Quyển 20 ghi chép về Thái Nguyên có nguồn tài liệu phong phú, được biên lập trung thực. Điều thú vị và ý nghĩa là các sử gia đã tra cứu, viện dẫn nhiều sách cổ minh chứng về nguồn gốc lịch sử của Thái Nguyên, đồng thời đưa ra góc nhìn khá toàn diện.
Về hình thể Thái Nguyên có địa giới: Đông tây cách nhau 294 dặm, nam bắc cách nhau 241 dặm. Phía đông đến địa giới các huyện Yên Thế và Hữu Lũng tỉnh Bắc Ninh. Phía tây đến địa giới các huyện Châu Hóa, Vĩnh Điện tỉnh Tuyên Quang và địa giới huyện Sơn Dương, tỉnh Sơn Tây. Phía nam đến địa giới huyện Yên Lãng tỉnh Sơn Tây và địa giới các huyện Hiệp Hòa, Kim Anh, Thiên Phúc tỉnh Bắc Ninh. Phía bắc đến các huyện Văn Quan, Thất Khê tỉnh Lạng Sơn và địa giới Thạch An, Thạch Lâm tỉnh Cao Bằng. Phía đông nam đến địa giới tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Sơn Tây, phía tây nam đến địa giới tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Sơn Tây; phía đông bắc đến địa giới tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Lạng Sơn. Phía tây bắc đến địa giới tỉnh tuyên Quang và tỉnh Cao Bằng. Từ tỉnh lỵ đi về phía nam đến kinh thành 1.542 dặm.
Trong dựng đặt và diên cách, thời các vua Hùng nước ta được chia thành 15 bộ thì Thái Nguyên thuộc về bộ Vũ Định. Thời nhà Hán đô hộ, Thái Nguyên thuộc huyện Long Biên, sau là huyện Tây Vu thuộc quận Giao Chỉ. Dưới thời thống trị của nhà Đường (thế kỷ VIII đến thế kỷ IX) Thái Nguyên nằm trong đất châu Long, châu Vũ Nga. Thời nhà Lý năm 1010, 10 đạo trong nước ta đổi thành 24 lộ, Thái Nguyên là một châu thuộc Như Nguyệt giang lộ, sau lại thuộc phủ Phú Lương. Đời nhà Trần, năm Quang Thái thứ 10 (1397), châu Thái Nguyên đổi thành trấn Thái Nguyên gồm các huyện: Phú Lương, Tư Nông, Vũ Lễ, Động Hỷ, Tuyên Hóa, Đại Từ, Vĩnh Thông, Lộng Thạch, Cảm Hóa và châu Thái Nguyên.
Năm 1407 trấn Thái Nguyên đổi thành châu Thái Nguyên; năm 1410, châu Thái Nguyên được nâng lên thành phủ Thái Nguyên. Năm Vĩnh Lạc thứ 12 (1423), huyện Tư Nông dồn vào An Định, huyện Động Hỷ vào huyện Phú Lương, huyện Đại Từ vào huyện Tuyên Hóa. Đến triều đại nhà Lê, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo, phủ Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) thời Lê Thánh Tông, Thái Nguyên được đặt là Thừa tuyên Thái Nguyên, gồm ba phủ: Phú Bình, Thông Hóa, Cao Bằng. Năm Quang thuận thứ 10 (1469) Lê Thánh Tông định lại bản đồ toàn quốc đổi Thừa tuyên Thái Nguyên thành Thừa tuyên Ninh Sóc. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thời Lê Thánh Tông Thái Nguyên được gọi là Thừa tuyên xứ với ba huyện, 6 châu. Thời Lê Trung Hưng (1533 – 1788) Thái Nguyên lại được đổi thành trấn. Thời Gia Long, trấn Thái Nguyên có 2 phủ, 11 huyện.
Năm Minh Mệnh thứ 12 ngày 4/11/1831, trấn Thái Nguyên được gọi là tỉnh bao gồm 2 phủ là Thông Hóa và Phú Bình; 2 châu là Bạch Thông và Định Châu; 9 huyện là Cảm Hóa, Tư Nông, Động Hỷ, Bình Tuyền, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai, Phổ Yên, Văn Lãng.
Các phủ, châu, huyện trong tỉnh Thái Nguyên thời vua Tự Đức cũng được ghi chép, miêu tả kỹ. Chức quan trong địa hạt dưới quyền Tổng đốc là Bố Chính và Án sát, các phủ, châu huyện do các phiên thần nối đời quản trị và dần đổi đặt chế độ lưu quan.
Đặc biệt các sử gia đã ghi chép cụ thể về phủ Thông Hóa (sau đổi thành Na Rì), huyện Cảm Hóa (sau đổi thành Ngân Sơn) và châu Bạch Thông. Các phủ, châu, huyện đó sau được tách ra thành lập tỉnh mới Bắc Cạn (sau này đổi thành Bắc Kạn)
Là một tỉnh bán sơn địa, “Núi cao thì có núi Khâu Hoắc và núi Độc Tôn, sông lớn thì có sông Mão và Đồng Mỗ. Tỉnh thành đất bằng phẳng, rộng rãi, đường thủy, đường bộ giao thông đều thuận tiện” nên “đường sá giao thông với các tỉnh láng giềng đều đặt đồn bảo, khống chế lẫn nhau” và “nhận đất đặt huyện để giữ vùng biên giới. Cũng là một miền quan yếu”.
Thái Nguyên “nằm giữa nơi núi khe hiểm trở, chiếm giữ địa lợi tài nguyên”. Ngay phần hình thể, các sử gia đã trích lục Văn đài loại ngữ của Lê Quý Đôn: “Xứ Thái Nguyên có vàng, bạc đồng, thiếc, chì, sắt tre, gỗ, củi than, công tư dùng đủ; lại có chè, sơn, vỏ gió, dâu, gai và tôm cá, mối lợi dồi dào”.
Về nghề nghiệp, người Thái Nguyên: “Làm ruộng, buôn bán, chài lưới, đẵn cây tùy tiện sinh nhai”. Việc canh tác một số huyện có sự phát triển mạnh: “Làm ruộng thì có 2 vụ, cũng giống tỉnh Bắc Ninh, duy các huyện Định Châu, Văn Lãng, Đại Từ và Phú Lương có cấy lúa bốn mùa, cứ 3 tháng một lần thu hoạch, đấy là điều hơi khác”.
Các tộc người sinh sống ở Thái Nguyên do triều đình quản lý còn đơn giản, các sử gia không phân định rạch ròi, nhưng cũng được ghi chép cẩn thận: “Người Kinh, người Thổ ở lẫn nhau” và “Có những giống người Mán ở linh tinh các nơi, như Mán Sơn Man, Mán Cao Lang, Mán Đeo Tiền và người Bạch Miêu… Các chủng tộc kể trên, tiếng nói líu lo, mặc màu xanh thắm, chỗ ở ít thì làm nhà sàn dựa vào núi. Làm ăn thì dùng sức nước để giã gạo, làm cái cọn để lấy nước vào ruộng”.
Mãi muôn đời lưu dấu nét ngàn xưa
Bằng cách viết theo lối cổ ngắn gọn, mạch lạc, cài đặt đan xen yếu tố địa lý, di tích lịch sử văn hóa, tiểu truyện các danh nhân, sản vật địa phương… người đọc dễ dàng hình dung bức tranh toàn cảnh của tỉnh Thái Nguyên từ xa xưa tới giai đoạn biên soạn quốc sử.
Mục thành trì, các sử gia chép: “Thành tỉnh Thái Nguyên chu vi 345 trượng, cao 9 thước, mở 4 cửa, hào rộng 3 trượng, sâu 5 thước ở địa phận huyện Động Hỷ, trước ở huyện Thiên Phúc, tỉnh Bắc Ninh. Bản triều đời Gia Long thứ 12 dời đến chỗ hiện nay (tức Đồng Mỗ) và đắp thành bằng đất. Năm Tự Đức thứ 2 đổi xây bằng gạch”. Các sử gia cũng kể tên và ghi các thành lũy ở phủ, lỵ sở huyện đều đắp bằng đất.
Trường học thời vua Tự Đức ghi nhận duy nhất một trường ở địa phận xã Phủ Liễn, ngoài cửa tây tỉnh thành, nên học vấn chỉ một vài huyện: “Có người biết chút văn học, còn các địa phương khác thì ít lắm”.
Thái Nguyên có vị trí “quan yếu”, đảm nhiệm bố trí quân tuần phòng trấn giữ biên ải và là một tỉnh phồn thịnh, tỉnh lỵ mang dáng dấp của kinh thành thu nhỏ. Cùng với thành lũy, phố phường, phố chợ, nhiều công trình lớn được xây dựng; “Đàn Xã Tắc ở châu Oanh, huyện Động Hỷ, về phía tây tỉnh thành, dựng vào năm Minh Mạng thứ 13. Đàn Tiên Nông, ở xã Đồng Mỗ, huyện Động Hỷ, về phía tây tỉnh thành, dựng năm Minh Mạng thứ 13. Văn Miếu, đền Khải Thánh, đều ở xã Đồng Lẫm, phía Bắc tỉnh thành, trước ở xã Cốt Ngạnh, huyện Phổ Yên…”. Cùng với đó là hàng loạt đàn, đền, miếu: Đàn Sơn Xuyên ở xã Phủ Liễn, miếu Hội Đồng ở xã Đồng Mỗ, Miếu thành Hoàng ở xã Phủ Liễn, đền Quân Công ở xã Đồng Mỗ, đền Cao Vương ở huyện Động Hỷ, đền Tam Giang ở xã Loa Lũ, đền Ngọc Bội ở xã Thanh Hiệp...
Phật giáo cũng khá phát triển, mục chùa quán trên địa bàn tỉnh ghi nhận một số ngôi chùa lớn như: Chùa Thạch Sơn ở xã Hóa Trung, chùa Tây Thiên ở núi Độc Tôn, chùa Hương Bá ở xã Chàng Xá.
Thời kì đó qua sông chủ yếu dùng đò ngang, tuy vậy mục đò cầu ghi nhận có cầu đá Lợi Xá ở huyện Phổ Yên, cầu Đồng Mỗ ở huyện Động Hỷ. Việc quản trị, giao dịch, giải quyết việc công tư khá thông suốt, thuận tiện với 11 cửa quan, 1 tấn sở, 1 nhà trạm.
Miền đất Thái Nguyên xuất hiện những anh hùng hào kiệt, tiêu biểu như: Dương Tự Minh, người Quan Triều, huyện Phú Lương; Lưu Trung người Văn Yên, Đại Từ; Lưu Nhân Chú, con trai Lưu Trung; Tiến sĩ Đỗ Cận, người huyện Phổ Yên.
Trong thời đại ngày nay, tới bất kỳ miền đất mới nào, nhiều người thích tới thăm chợ. Người xưa có câu: “Chợ là gương mặt làng quê”. Không gian chợ phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội. Chợ không chỉ là nơi giao thương, buôn bán, mà còn là điểm gặp gỡ giao lưu, thậm chí đơn giản chỉ để chơi. Giữa chốn tỉnh thành Thái Nguyên có hai chợ lớn là Đồng Mỗ, Huống Thượng. Các phủ, châu huyện nào cũng có chợ. Các sử gia đã khảo cứu và ghi chép cho thấy đôi nét chợ và phố, đơn cử ở châu Bạch Thông: “Chợ Hà Hiệu, chợ Quảng Khê, chợ Bắc Phấn, chợ Dương Quang có phố, chợ Yên Đĩnh phố xá trù mật, người Thanh, người Thổ, người Kinh, người Nùng ở lẫn lộn. Phố Bắc Cạn, nhà cửa trù mật, người Thanh và người kinh ở lẫn lộn. Phố chợ Rã, phố Na Tú, xã Công Bật. Ở huyện Cảm Hóa có các chợ và phố: “Phố Cẩm Giàng, phố Xuân Dương, phố Thượng Giang, phố Cốc Đán…”.
Mục thổ sản được các sử ra biên lục cặn kẽ địa bàn từng huyên, đi kèm là mức thuế nộp của các mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc trắng, kẽm đen, sắt. “Vàng: Châu Bạch Thông có mỏ Bằng Thành, mỗi năm nộp thuế 15 lạng. Huyện Võ Nhai có mỏ Kim Hỉ, mỗi năm nộp thuế 20 lạng, mỏ Thuần Mang, mỗi năm nộp thuế 13 lạng, mỏ Sản Mộc, mỗi năm nộp thuế 9 lạng, mỏ Bảo Nang, mỗi năm nộp thuế 6 lạng. Bạc: Huyện Cảm Hóa có mỏ Ngân Sơn, mỗi năm nộp thuế 370 lạng. Châu Bạch Thông có mỏ Tống Tình, mỗi năm nộp thuế 160 lạng, mỏ Bông mỗi năm nộp thuế 150 lạng, mỏ Cảm Lạc mỗi năm nộp thuế 80 lạng. Thiếc trắng: Huyện Cảm Hóa mỗi năm nộp thuế 100 cân. Kẽm đen: Huyện Võ Nhai có mỏ Làng Nho mỗi năm nộp thuế 600 cân…”.
Trong sản xuất nông nghiệp, Thái Nguyên cũng là tỉnh nộp thuế ruộng cao cho triều đình: “Ruộng đất 59.507 mẫu, ngạch thuế 13.705 hộc thóc, 23.848 quan tiền, 57 lạng vàng, 2.168 lạng bạc”.
Các nhà nghiên cứu hiện chưa rõ cây chè Thái Nguyên có từ bao giờ, nhưng thời kì này cây chè đã rất phát triển và là một loại thổ sản giá trị. Các sử gia chép: “Chè nam: Sản ở các huyện Phú Lương, Động Hỉ, Đại Từ, Phổ Yên vị ngon hơn các nơi khác”. Các sử gia cũng trích Văn đài loại ngữ của Lê Quý Đôn viết năm 1773 khẳng định cây chè đã được trồng nhiều tại xứ Thái Nguyên.
Trong Đại Nam nhất thống chí, phần núi sông được biên lục rành rẽ, phần vì đã được đo vẽ trên bản đồ, phần vì dễ nhận thấy và quan lại nhiều đời miêu tả trong các văn tự, thư tịch. Các sử gia cũng nêu bật vẻ đẹp hùng vĩ, trữ tình thơ mộng của hồ Ba Bể: “Hồ Ba Bể phía tây có núi đá, một đường nước từ trong động núi chảy ra đến địa phận xã Nam Mẫu mở ra một vũng rộng ước hơn 600 mẫu, sâu 5 trượng, gọi là bể Dù, chảy đến địa phận xã Cao Thượng lại mở ra một vũng rộng ước hơn 300 mẫu, sâu 2 trượng gọi là bể Tàu, chảy đến xã Thương Giao mở ra một vũng nữa cũng rộng ước hơn 300 mẫu, sâu 2 trượng gọi là bể Hoài. Các bể đều có núi đá bao bọc, cạnh bể có dân cư, nước đá xen nhau, cây cối um tùm. Trong bể thì núi mọc lô nhô, ẩn hiện trong làn sóng. Lúc gió lặng sóng êm, thuyền chài bơi lội tứ tung, phong cảnh tuyệt đẹp”. Sự tích hồ Ba Bể các sử gia trích trong sách Công du tiệp kí của Vũ Phương Đề, cùng nhiều dị bản trong dân gian làm cho đảo Bà Góa nhấp nhánh sắc màu huyền thoại cuốn hút, mê hoặc lòng người.
Trải qua những biến động lịch sử, nhiều công trình kiến trúc, núi non, hồ nước, địa danh… chỉ còn dấu tích. Nhưng giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể qua từng trang sách vẫn luôn sống mãi với thời gian. Mong rằng, trong tương lai, tỉnh có thể đầu tư tôn tạo, phục dựng toàn phần, hoặc một phần những công trình thực sự mang ý nghĩa văn hóa phục vụ phát triển du lịch và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ như: Văn miếu Thái Nguyên và đền Khải Thánh, cổng thành Đồng Mỗ…
Dưới góc nhìn của các sử gia triều Nguyễn, Thái Nguyên là miền đất lành màu mỡ, nơi khí thiêng hội tụ và có vẻ đẹp hùng vĩ làm say lòng “tao nhân mặc khách”. Từ ngàn xưa, công đồng các dân tộc Thái Nguyên đã gắn bó, chia ngọt sẻ bùi dựng xây cuộc sống. Mỗi khi đất nước gặp họa xâm lăng, muôn dân một lòng “trung quân báo quốc”.
Sáp nhập hai vùng đất vốn đã từng là một tỉnh mở ra không gian và dư địa cho tầm nhìn mới. Trước thời cơ, vận hội và khát vọng hùng cường của dân tộc, chắc chắn Thái Nguyên với nguồn lực nội sinh, tiềm năng sẵn có sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.
Phan Thái
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...