
Góc biếm họa số 8 (2025)

(Trường ca - trích)
Chương 1
Người Gia Bẩy
Trong ký ức phủ sương của tôi
Cầu Gia Bẩy như chiếc chõng tre
Lồng bóng dịu dàng lòng sông đắm đuối
Đầu cầu có cây me trăm tuổi
Nơi hò hẹn của cô gái Bến Than (1) ,
Gặp chàng trai sang từ Đồng Bẩm (1)
Con thuyền giăng buồm trắng
Bẽn lẽn trôi về Ba Đa (1)
Ai xá xíu, ai bánh đa…
Ai cà phê, ai phở nóng…
Tắc, tắc, que tre gõ vào đêm vắng
Người bán khẽ khàng rao
Ghé nhanh ô cửa sáng đèn
Mùi bánh bao lan phố nhỏ.
Trong ký ức phủ sương của tôi
Hoa ngọc lan ướp đêm thánh thiện
Lặng thầm khoe cánh trắng
Như một mảnh trăng thầm.
Trong ký ức của tôi
Bóng mẹ lẫn vào sương sớm
Lưng áo màu nâu sẫm
Mồ hôi ướt gót chân
Những làng Um, làng Hà, La Hiên, Phú Lương, Phấn Mễ… (1)
Bàn chân bé đo quãng đường dài
Hun hút bóng đêm
Mẹ nghĩ những gì?
Tiếng mẹ kể thì thầm sợ hãi
“Lính Tây lăm lăm cây kiếm
Nhà nhà đóng cửa
Tên tay sai Cung Đình Vận (2)
Đánh người chẳng ghê tay
Bánh xe bò kẽo kẹt, xác người đung đưa
Người chưa chết cũng hất xuống hố chôn, đằng nào chả chết
Bao năm qua, mồ chung còn đó…”
Trong ký ức của tôi
Mắt bố buồn man mác
Ngắm chiều tàn ráng hoàng hôn
Ngắm cây đìu hiu, người xơ xác
Tiếng thở dài nén thật sâu.
Trong ký ức của tôi
Phố nhỏ gập ghềnh sỏi đá
Chị tôi tóc phồng cặp ba lá (3)
Gia Bẩy (1) chiều về
Chật bến sông trẻ con nô nghịch
Con thuyền nhỏ giương lưới thức
Đám ốc mỡ bám tảng đá xanh.
***
Đứa trẻ là tôi lớn lên
Bi bô tiếng đầu gọi mẹ
Lẫm chẫm bước chân bến cát
Dõi tay mẹ ngắm bãi ngô non
Bên lở bên bồi, mẹ dạy con
Ngắm cây cầu chõng tre trưa hè mát lịm.
Giấc mơ tuổi thơ bảy sắc long lanh
Nát bươm bởi tiếng rít gầm máy bay giặc Mỹ
“Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý”
Bom nổ tứ bề, phố nhỏ chìm trong lửa
Bầu trời nóng bỏng, ngập mùi thuốc súng
Bom thả trúng hầm, trúng nhà, trúng cầu Gia Bẩy
Chân cầu khuỵu gãy, tay níu nhau chống đỡ.
Xác người vắt cành me
Tiếng la thét, tiếng gào khản đặc
Con tìm cha, vợ tìm chồng
Mâm cơm vỡ tung
Máu tươi đẫm miệng hầm
Mái ấm không còn dấu vết.
Trên đồi Két Nước (1)
Trung đội tự vệ khu phố Hoàng Văn Thụ (1)
Một cây thượng liên, chục cây súng trường
Các chiến sĩ dân quân: Vũ Đình Đức, Trần Văn Đương chỉ huy trận địa; Phan Văn Giao, chính trị viên; Nông Quốc Khánh, Hoàng Văn Đương, Lê Xuân Tảo: xạ thủ; các tay súng trường quả cảm: Phạm Việt Hùng, Nguyễn Trung Ái, Ngô Đình Quý…; y tá Nguyễn Thị Mỹ Dung từ Đồng Hỷ bò qua cây cầu gẫy sang trận địa chi viện cho đồng đội; các đồng chí: Phạm Quang Hợp, Nguyễn Thị Tuyết, Bùi Thị Vân, Phạm Văn Bồng, Trần Thị Kim Dung… đang sửa chữa hầm phòng không ở Bến Than Gia Bẩy dũng cảm vượt qua làn mưa đạn lao lên trận địa tiếp sức cho đồng đội… (4)
Chiếc đi đầu, chính diện. Bắn!!!
Những loạt đạn giòn căng.
Những đôi mắt găm vào mũi súng.
Phải bảo vệ cầu, bảo vệ nhân dân thành phố!!!
Quyết tâm cháy bỏng ém đầu viên đạn
Xua bầy giặc lái ra xa.
Nhưng kìa, một chiếc phản lực vút lên, gầm thét, bổ nhào
Thả bom trúng trận địa.
Ba mươi hai con người mang dòng máu thắm
Nhuộm đỏ đất này.
Mười lăm người bay lên áng mây
Có cậu bé mười bẩy, tình yêu chớm nở (5)
Có người bốn con thơ (6)
Có người hẹn vợ chờ bữa cơm trưa
Ôi, những chàng trai Gia Bẩy
Ra đi ngày Mười Bẩy tháng Mười (7)
Trăm năm, hay bao nhiêu nữa
Nỗi đau chưa bao giờ cũ
Các anh bay trên dòng sông này, trên cây cầu này,
À ơi, sông ru anh ngủ
Cây cầu như chiếc chõng tre
Ôm giấc mơ hiền hậu
Yên giấc nhé, các anh
Hồn các anh trẻ mãi cùng thành phố ngày càng nhuận sắc.
Mỗi lần qua cầu, chân tôi bước chậm
Mỗi nhịp cầu là một bản hùng ca
Thẳm sâu dòng nước hiền hòa
Mỗi nhịp sóng một pho truyện cổ
Tiếc lắm mình bé nhỏ
Không đủ lời kể trầm tích ngàn năm.
Chương 2:
Hầm kèo, nơi chúng tôi khôn lớn
Đêm Mười Bẩy tháng Mười
Người Thành phố ra đi
Rì rầm trong đêm
Bước chân mò mẫm
Đi, đi thôi, tránh hòn tên mũi đạn
Đi, đi thôi, rời bỏ căn nhà êm ấm
Chào nấm mộ vừa đắp cho người nằm xuống
Chào vòm cây lích chích tiếng chim
Chào sông Cầu nát vụn mảnh bom.
Đứa trẻ ngủ trên lưng cha
Mắt liu diu giấc mơ thập thững
Miệng chóp chép thèm sữa ấm
Vú mẹ căng quá bữa con thơ.
Cụ bà nương vào cây gậy
Lưng cong hơn mảnh trăng già
Chặng đường xa thật xa
Có là chặng cuối?
Đôi mắt đựng câu hỏi
Rồi tương lai về đâu?
Có chú chó quẩn chân
Hoang mang chạy trước chạy sau
Chú mèo ngoao ngoao
Tìm hơi ấm trong đám nồi xoong lộn xộn…
Phúc Trìu, Phúc Xuân, Bờ Đậu (1)
Cổ Lũng, Tân Cương, Tức Tranh… (1)
Những vùng quê xa lạ.
Đi, đi nào, đi xa thành phố
Xa nơi không muốn rời xa.
Người nhà quê ngơ ngác nhìn người thành phố
Đứa trẻ chăn trâu rụt rè tặng đóa hoa sim
Cỏ non hôn bàn chân chưa quen dẫm đất
Cất lên đôi tiếng thì thào
Chào đón chai sần sẽ đến.
Mẹ cắp chiếc nón mê đi chào hàng xóm
Người cho vạt đồi, người cho mảnh ruộng
Dạy trồng sắn cắm nghiêng hom
Dạy nhổ không đau rễ mạ
Nắm lá chè nhẹ thôi đừng để búp nhàu.
Người nhà quê giang tay đón người thành phố
Chia củ sắn nùi, bát nước chè tươi
Dạy đan rổ đan sàng lóng mốt lóng hai
Dạy cuốc đất gieo ngô, đánh luống trồng khoai
Dạy chuốt rạ lợp nhà, nhào bùn trát vách
Dạy chào hỏi râm ran đầu làng cuối ngõ
Người nhà quê ít khi đóng cửa
Người thành phố về cửa mở rộng hơn.
Em bé là tôi, má nẻ căng ngồi bên bếp guột
Ê a theo chị ra đồng, mót rảnh lúa kẹt trong kẽ rạ
Ngồi lưng trâu mộng nhong nhong
Đốt rạ nướng khoai lấm lem mặt mũi.
Lớp học bên bụi tre ngà, chân ghế nối đường hào chữ chi
Cô giáo gót nhuốm bùn, cầm tay tôi ram ráp
“O tròn như quả trứng gà”
Nét chữ đầu tiên bên miệng hầm trú ẩn.
Tôi quen tiếng kẻng báo động
Quen tìm hầm cá nhân đào cách quãng ven đường
Quen chiếc mũ rơm nặng trĩu
Biết bịt tai ôm đầu khi mảnh đạn văng tứ tung mặt đất
Biết ngửa mũi đón khí trời từ lỗ thông hơi
Đèn dầu lom dom soi chữ mờ chữ tỏ
Tôi quen ngửi mùi đất
Chơi với rễ cây loèo ngoèo
Ngắm thân tre ngả từ xanh mỡn sang vàng sậm
Tôi lớn lên dưới mái hầm kèo.
Đêm đêm, bố tôi dõi mắt về chốn cũ
Quầng đỏ rực lên, bom Mỹ thả rồi
Trong góc hầm nén tiếng thở dài
Không biết nơi nào thành hố bom sâu hoắm?
Liệu Bảo tàng còn không? Bưu điện còn không? Nhà bà Bích, ông Hùng, cây gạo, cây bàng, nhà mình còn không?
Mộ ông bà cỏ chưa kịp lên xanh
Chiếc nôi đan chưa xong
Con diều đang phết dở
Câu hát sổ tay chép ngang chừng
Liệu có còn không cho người về chắp nối?
Mấy chục cây số mà xa đến mười năm
Ngày trở về tôi thành thiếu nữ
Vĩnh biệt hầm kèo, vĩnh biệt mũ rơm
Chào nhé suối Thơm, cầu tre mảnh khảnh
Chào nhé ruộng vườn, bàn tay sẫm nhựa trà xanh
Chào khói đốt đồng xộc cay sống mũi
Chào xóm giềng lầm lũi
Chào con đường đỏ bụi loanh quanh
Tôi trở về phố xưa Gia Bẩy.
----
Chú thích:
(1): Tên địa danh của tỉnh Thái Nguyên;
(2): Tên tay sai khét tiếng của thực dân Pháp;
(3): Loại cặp tóc của phụ nữ, làm bằng sắt;
(4): Diễn biến trận đánh được ghi trong Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 1945-1975;
(5): Liệt sĩ Phạm Việt Hùng và Đỗ Duy Hiển, sinh năm 1948, mất ngày 17 tháng 10 năm 1965;
(6): Liệt sĩ Phan Văn Giao, sinh năm 1923, mất ngày 17 tháng 10 năm 1965;
(7): Ngày 17/10/1965, máy bay Mỹ đánh bom cầu Gia Bẩy khiến cầu bị sập, gần 200 người dân khu vực cầu bị thương vong. Ngay trong đêm 17/10, nhân dân Thành phố được lệnh sơ tán khẩn cấp ra khỏi khu vực nguy hiểm.
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...