Thứ sáu, ngày 02 tháng 05 năm 2025
11:46 (GMT +7)

Văn học, nghệ thuật Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025) - Kỳ 1

LTS: Ngày 23/4 vừa qua tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “50 năm Văn học nghệ thuật Việt Nam đồng hành cùng dân tộc”.

Tham dự Hội thảo có lãnh đạo Hội đồng Lý luận Trung ương, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, các Hội chuyên ngành trung ương, một số Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố phía Bắc và miền Trung; cùng nhiều văn nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, lý luận - phê bình văn học nghệ thuật.

45 tham luận gửi đến Ban tổ chức cùng các ý kiến trao đổi tại Hội thảo đã góp phần tổng kết, đánh giá chặng đường 50 năm phát triển của văn học nghệ thuật nước nhà, rút ra những bài học kinh nghiệm, bước đầu định hình tầm nhìn và sứ mệnh của văn học nghệ thuật trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên trân trọng giới thiệu và đăng tải một số tham luận tiêu biểu tại Hội thảo, với mong muốn giúp bạn đọc nhận diện rõ hơn nền văn học nghệ thuật nước nhà 50 năm qua và những vấn đề đặt ra trong thời kỳ mới.

Mở đầu, xin giới thiệu tham luận của GS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ -  Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Trưởng Ban Lý luận phê bình văn học nghệ thuật. Một bài viết hết sức công phu, khái quát toàn cảnh nền văn học nghệ thuật nước nhà từ năm 1975 đến nay.

Để thuận tiện cho quý độc giả trong quá trình theo dõi, Tòa soạn xin được phân chia bài viết thành ba kỳ khi đăng tải.

Văn học, nghệ thuật Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025) - Kỳ 1

 1. Bối cảnh tình hình

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), đề tài lớn nhất, có tính xuyên suốt của văn học, nghệ thuật là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là kháng chiến, kiến quốc; là lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng; xây dựng chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân vật chính, nhân vật trung tâm của văn nghệ lúc đó là anh Vệ quốc, anh Giải phóng quân, Bộ đội Cụ Hồ; là nông dân, công nhân.

Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đã đưa đất nước ta bước sang một trang sử mới - trang sử hòa bình, thống nhất, đồng thời cũng mở ra cho văn học, nghệ thuật nước nhà một không khí mới, không gian mới, thống nhất, giao hòa, phát triển trong tính tổng thể, tiến bộ, cách mạng, bắt nhịp, cổ vũ, đồng hành với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Trưởng Ban LLPB Văn học nghệ thuật
PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Trưởng Ban LLPB Văn học nghệ thuật

 Ở giai đoạn sau năm 1975, văn học nghệ thuật chịu tác động đa chiều của bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế lúc đó: a) Sự hòa hợp, gắn kết giữa văn nghệ cách mạng xã hội chủ nghĩa với văn nghệ yêu nước, tiến bộ, có tinh thần dân tộc; b) Sự mâu thuẫn, hòa giải, tác động, đấu tranh giữa văn nghệ cách mạng, yêu nước, tiến bộ với một bộ phận văn nghệ phản động, sai trái từng phục vụ chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đế quốc Mỹ xâm lược; c) Sự pha trộn, tác động, đấu tranh về tư tưởng văn hóa và tâm trạng xã hội; d) Sự khác biệt giữa thời bình và thời chiến, giữa cái cũ, cái quen thuộc và cái mới, cái khác lạ; e) Sự khác nhau giữa cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và cơ chế thị trường bắt đầu được áp dụng ở nước ta... Tất cả những điều đó đã khiến cho những người sáng tạo văn học, nghệ thuật; những người làm công tác lý luận, phê bình, quản lý văn học, nghệ thuật và công chúng khó tránh khỏi những ngỡ ngàng, lúng túng, những vui mừng, háo hức và cả những nỗi buồn, u uất của một thời.

Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát triển văn học, nghệ thuật, có thể kể đến các nghị quyết tác động trực tiếp và mạnh mẽ như Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị (khóa VI) về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới. Nghị quyết nhấn mạnh: “Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính”. Ngày 16/6/2008, Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”. Nghị quyết yêu cầu phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, tập trung xây dựng, phát triển văn nghệ chuyên nghiệp. Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn hóa, văn nghệ dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn áp đặt, “xâm lăng” văn hóa của các thế lực thù địch.

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”... “phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.

2. Tiến trình thống nhất, đổi mới, phát triển ở một số lĩnh vực             

2.1. Văn học

Các nhà văn có thêm những thành tựu, kết quả mới hoặc đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học sau năm 1975 như Tố Hữu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Khải, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoàng Nhuận Cầm, Vương Trọng… Tiếp bước họ, đội ngũ của những người cầm bút giai đoạn đổi mới dần trưởng thành và đã có được những dấu ấn, kết quả nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Chu Lai, Nguyễn Mạnh Tuấn, Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư... Văn học các dân tộc thiểu số cũng có sự khởi sắc với Y Phương, Lò Ngân Sủn, Cao Duy Sơn, Inrasara(1)...

Trước đây, có những mảng hiện thực ít được phản ánh hoặc phản ánh chưa đầy đặn, sâu sắc thì đến lúc này, các nhà văn chú ý nhiều hơn, có thêm những khám phá, sáng tạo mới mẻ. Trong ý thức và tư duy của các nhà văn, đã có những đổi thay quan trọng, thậm chí, có sự biến đổi trong “hệ hình ý thức”. Quan hệ giữa nhà văn và hiện thực cuộc sống đã có những tham chiếu và cái nhìn khác trước, họ nhìn hiện thực bằng con mắt khách quan, đằm sâu, tìm hiểu, lý giải cả những góc khuất, mặt trái, những mất mát, khổ đau của chiến tranh, của đời sống thường nhật, của thân phận con người.

Xu hướng sử thi, viết về các đại tự sự có tính chất và tầm vóc dân tộc, quốc gia, giai cấp, thời đại, các sự kiện và nhân vật lịch sử tiêu biểu dần giảm xuống, chất đời thường, đời sống cá nhân được tăng lên trong sự đổi mới hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật. Sự thay thế “cái nhìn sử thi” bằng “cái nhìn tiểu thuyết” là đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết đương đại. Các nhà văn đề cao tinh thần phê phán, phản biện, tự ý thức của mỗi con người trên tinh thần nhân văn, dân chủ. Quan niệm con người kiểu sử thi - luôn vươn lên trở thành những biểu tượng về cái đẹp, cái hào hùng trong văn học giai đoạn trước đã chuyển dần sang quan niệm con người thế sự với những trăn trở, vật lộn đời thường, có cả mặt tốt, mặt xấu, nhân văn và tha hóa, thậm chí tha hóa nghiêm trọng. Bên cạnh những tác phẩm vẫn gắn bó với đề tài lịch sử, những sự tích anh hùng là những tác phẩm sử thi nhiều hơn chất sáng tạo, lịch sử như là cái cớ để nhà văn thể hiện những sáng tạo mang đầy chất thế sự - hiện thực của mình. Tính đối thoại với lịch sử, nhìn lại lịch sử, “phản cổ tích”, “giải huyền thoại”... cũng đã tạo nên những phản ứng khác nhau, có lúc trái chiều của giới nghiên cứu lý luận, phê bình và bạn đọc(2).

Ở thể loại truyện ngắn, xuất hiện kiểu nhân vật mới - nhân vật ít hoặc chưa từng xuất hiện trong văn học (nhân vật cô đơn, nhân vật bản năng, nhân vật sám hối, nhân vật phản bội, tha hóa...). Một trong những sự thay đổi được coi là “bước ngoặt” của truyện ngắn đương đại chính là khả năng nhận diện, khám phá hiện thực bằng cái nhìn cá thể; sử dụng kiểu cốt truyện co giãn linh hoạt, cốt truyện lỏng lẻo hay kiểu kết cấu bỏ ngỏ...

Cùng với truyện ngắn và tiểu thuyết, ký cũng là một thể loại có nhiều đổi mới. Ký đương đại đã mạnh dạn, tự tin đi vào những góc khuất của đời sống hiện thực; trực diện, thẳng thắn bày tỏ quan điểm, thái độ cũng như những suy tư, trăn trở về cuộc sống mới. Tản văn là một thể loại được ưa chuộng, số người viết tăng nhanh.

Nói về văn xuôi đương đại, không thể không nói đến sự pha trộn thể loại, như một đặc trưng của văn học giai đoạn này, đó là chất ký trong tiểu thuyết và truyện ngắn; chất thơ trong truyện, chất truyện trong ký. Độ mờ nhòe giữa các thể loại, sự đan xen các loại ngôn ngữ, các thể loại trong cùng một tác phẩm đã tạo nên dấu ấn rõ nét trong văn xuôi tự sự đương đại.

Một vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình là sự xuất hiện của văn học “hậu hiện đại” trong văn chương Việt Nam sau năm 1986. Có thể thấy dấu hiệu của xu hướng này trong các sáng tác giai đoạn gần cuối sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Minh Châu: Phiên chợ Giát, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa... Cảm quan “hậu hiện đại” trong sáng tác biểu hiện ở sự xáo trộn, “rạn vỡ” nào đó của trật tự xã hội, sự phai nhạt hay lung lay niềm tin ở mức nào đó của con người... Có thể nhận ra điều này trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Không có vua, Muối của rừng, Con gái thủy thần)... và trong tác phẩm của một số tác giả khác.

Văn học hậu hiện đại vừa có sự ảnh hưởng từ văn học phương Tây, vừa ít nhiều mang tính nội sinh. Do đó, “hậu hiện đại” cũng giống như nhiều trào lưu văn học, văn hóa khác, khi vào Việt Nam đều không mang tính triệt để, tức là nó không mang đầy đủ các đặc trưng của “hậu hiện đại” phương Tây. Phong cách của nhà văn đương đại Việt Nam có sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, giữa hiện đại và hậu hiện đại, giữa cách viết cũ và việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật mới trong sáng tác.

Nói về thành tựu của văn học đương đại Việt Nam không thể không nói đến những đóng góp của các nhà văn Việt Nam ở nước ngoài. Đó là Thu Tứ, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thị Hoàng, Linda Lê, Nguyên Sa, Nguyễn Thụy Vũ, Nguyễn Bá Chung, Hoàng Khởi Phong, Ocean Vương, Nguyễn Huy Hoàng, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Phan Quế Mai, Thuận, Kiệt Tấn, Trương Anh Tú, Hiệu Constant, Quỳnh Iris de Prelle, Viet Thanh Nguyen, Doan Bui, Vũ Trần, Isabelle Thuy Pelaud, Lan Dương, Bích Minh Nguyễn, Thanhha Lai, Monique Trương, Kevin Nguyễn, Quan Barry, Amy Tan...

Dù có những đổi mới nhưng thơ sau năm 1975, thậm chí sau 1986 vẫn chưa hình thành rõ rệt các khuynh hướng, phong cách thật rõ. Nói đến sự đổi mới của thơ đương đại, không thể không nói đến độ “chín” và những thành công tiếp nối của Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Quang Thiều, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Hoàng Nhuận Cầm... ở mảng đề tài chiến tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  

Trong dòng chảy của thơ đương đại, thơ các dân tộc thiểu cùng với tên tuổi của các nhà thơ Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn, Cầm Biêu... đã có thêm các cây bút mới như Y Phương, Mã A Lềnh, Pờ Sảo Mìn, Inrasara, Lò Ngân Sủn, Hùng Đinh Quý, Mai Liễu, Niê Thanh Mai, Hơ Vê, Bùi Tuyết Mai...

Ngoài những thành tựu trên, thơ đương đại vẫn còn có một số tập thơ, câu thơ rơi vào bệnh hình thức, cá biệt có tập thơ sử dụng những ngôn từ và hình ảnh thiếu cả tính văn hóa lẫn nghệ thuật, sa vào tục tĩu, “thơ rác”, “thơ bụi”, “thơ dơ”, “thơ bẩn”, “thơ lạc chuẩn”…

2.2. Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật

Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập, việc lựa chọn và tiếp nhận các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, phê bình của nước ngoài và vận dụng vào Việt Nam đã có những gắng gỏi và kết quả đáng khích lệ. Các lý thuyết hiện đại như Thi pháp học, Văn học so sánh, Loại hình học, Tự sự học, Lý thuyết diễn ngôn, Phân tâm học… đã trở thành công cụ khá quen thuộc của nhiều nhà lý luận, phê bình trong nước. Nhờ đó, giới lý luận, phê bình có thêm góc nhìn, tầm nhìn mới, thay đổi dần tư duy cũ và cả cách viết cũ. Xuất hiện những nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình có tư duy, năng lực và phương pháp khoa học vững vàng hơn, tác động tích cực và rõ ràng đến đời sống văn học, nghệ thuật(3).

Các giá trị văn học, văn hóa truyền thống trước đây chưa được nhìn nhận một cách khách quan và thỏa đáng thì đến lúc này được tiếp cận, nghiên cứu, lý giải rành mạch và thuyết phục hơn. Ví dụ: việc đánh giá lại phong trào Thơ mới, Tự lực văn đoàn, Văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ, văn học, nghệ thuật vùng tạm chiếm 1946 - 1954, 1954 - 1975, kể cả các hiện tượng, nhân vật khá phức tạp, nhạy cảm như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trương Tửu…

Công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật đã có bước tiến đáng kể, nhất là sự chuyển giao thế hệ, sự gắn kết giữa các thế hệ, sự xuất hiện của những công trình nghiên cứa, các chuyên luận có giá trị(4). Đã hình thành thế hệ các nhà lý luận, phê bình có trình độ, năng lực, phương pháp bảo đảm, có trình độ ngoại ngữ và khả năng tiếp xúc, tiếp biến các tư tưởng mới, các hệ thống lý thuyết phương Tây và vận dụng vào từng không gian văn học, nghệ thuật tương thích để giải mã tác giả, tác phẩm, hiện tượng, quá trình(5).

(còn nữa)

PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Trưởng Ban LLPB Văn học nghệ thuật.

------

Chú thích:

(1) Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho tinh thần đổi mới mạnh mẽ (và có phần gai góc) trên 3 phương diện: phát hiện vấn đề, thay đổi lý thuyết và thực tiễn sáng tác, biểu hiện ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, Mảnh đất tình yêu. Nguyễn Mạnh Tuấn với những vấn đề thời sự: Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao Tràm; Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma; Dương Hướng với Bến không chồng; Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Muối của rừng, Con gái thủy thần, Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc... Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh (lúc đầu lấy tên là Thân phận tình yêu)... Văn xuôi các dân tộc thiểu số với Đọa đày của Vi Hồng; Đàn trời, Chòm ba nhà, Ngôi nhà bên kia suối của Cao Duy Sơn...

(2) Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp; Nguyễn Xuân Khánh với Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn...

(3) Trần Đình Sử với Thi pháp học, Tự sự học và Đỗ Lai Thúy với Phê bình phân tâm học, Nhân học văn hóa.

(4) Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Phương Lựu, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Mai Quốc Liên, Mã Giang Lân, Đinh Xuân Dũng, Trần Đăng Suyền, Phan Trọng Thưởng, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Điệp, Lý Hoài Thu, Trần Khánh Thành, Bùi Việt Thắng, Trần Hinh, Phạm Quang Long, Vũ Thanh, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Bá Thành, Đỗ Lai Thúy, Lộc Phương Thủy, Trịnh Bá Đĩnh, Lê Huy Bắc, Nguyễn Thành…

(5) Trần Mạnh Tiến, Trần Huyền Sâm, Đoàn Lê Giang, Phạm Xuân Thạch, Nguyễn Hoài Nam, Phùng Gia Thế, Phùng Ngọc Kiên, Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu, Phan Tuấn Anh, Đoàn Minh Tâm.

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy