Thứ hai, ngày 30 tháng 06 năm 2025
21:12 (GMT +7)

50 năm - Lý luận phê bình văn học thiểu số Việt Nam

1.Nhận xét chung

Với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn học Việt Nam hiện đại, văn học dân tộc thiểu số Việt Nam (DTTSVN) đã góp phần tạo nên diện mạo của một nền văn học Việt Nam đa dạng, phong phú, “tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Với 80 năm hoạt động và phát triển của mình (từ năm 1945 đến nay), văn học DTTS đã vươn tới những thành tựu đáng được khẳng định với đội ngũ các nhà văn là người DTTS ngày càng đông đảo hơn, nhiều thế hệ - với hàng ngàn tác phẩm văn chương thuộc nhiều thể loại và đã để lại trong lòng bạn đọc một ấn tượng sâu sắc về tiếng nói văn học các DTTSVN thời kỳ hiện đại. Là “sự tự ý thức” của văn học các DTTSVN hiện đại - lý luận, phê bình (LLPB) văn học DTTS cũng đã được hình thành, xuất hiện và liên tục vận động, phát triển trong suốt mấy chục năm qua song song với sự vận động và phát triển của văn học các DTTSVN thời kỳ hiện đại.

50 năm - Lý luận phê bình văn học thiểu số Việt Nam
PGS.TS Trần Thị Việt Trung - Ủy viên BCH, Chi hội trưởng Chi hội Lý luận phê bình (thứ hai từ phải sang) tham gia Đoàn Chủ tọa điều hành Hội thảo khoa học “Văn học Thái Nguyên 20 năm đầu thế kỷ XXI”do Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên tổ chức ngày 25/7/2022. Ảnh: Thanh Lên

Sự xuất hiện của hoạt động LLPB văn học trong đời sống văn học các DTTSVN - vừa như một sự đòi hỏi không thể thiếu đối với một nền Văn học thời kỳ hiện đại (bởi đó là biểu hiện của sự hoàn thiện về mặt thể loại), vừa như một tất yếu không thể khác khi nền văn học đó đã trưởng thành và đạt được nhiều thành tựu, cần được thẩm định, đánh giá, khẳng định và cần có sự tổ chức, định hướng phát triển cho đúng, cho phù hợp với yêu cầu của thời đại, phù hợp với đời sống tinh thần của đông đảo quần chúng (mà ở đây - chủ yếu là quần chúng nhân dân các DTTSVN).

Chính vì thế, LLPB văn học DTTS trong quá trình hoạt động của mình - kể từ khi xuất hiện bài viết có tính chất nghiên cứu phê bình đầu tiên của nhà thơ Nông Quốc Chấn “Kể ít chuyện làm thơ (1957) đến nay - đã trải qua nhiều chặng đường vận động, phát triển (khi sôi nổi, lúc âm thầm, thưa thớt, lúc đua nhau lên tiếng…) - LLPB văn học DTTS đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng, đáng ghi nhận. Trên hết, nó đã khẳng định sự có mặt đầy ý nghĩa của mình trong đời sống văn học các DTTSVN; nó giúp cho rất nhiều người hiểu thêm, hiểu rõ hơn và hiểu đúng về bản chất, bản sắc cùng bao vẻ đẹp, vẻ độc đáo của các tác phẩm văn chương DTTS. Bên cạnh đó, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn tại, sự phát triển của văn học DTTS trong thời kỳ hiện đại, thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay; nó cất tiếng nói (cả về lý luận và thực tiễn) về việc giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc; về việc sử dụng song ngữ trong sáng tác; về việc đổi mới trong sáng tác, sáng tạo văn chương DTTS… như là một đòi hỏi cấp bách để có thể hòa nhập sâu hơn vào dòng chảy của văn chương đương đại của dân tộc Việt.

Vì vậy, có thể nói rằng: LLPB văn học DTTS thời kỳ hiện đại đã xuất hiện kịp thời và góp phần không nhỏ vào việc lan tỏa những giá trị, những vẻ đẹp đặc sắc của văn học DTTS; đã góp phần tổ chức, định hướng cho bộ phận văn học DTTS ngày càng hoàn thiện, phát triển và đạt được nhiều thành tựu qua các giai đoạn lịch sử của đất nước.

2. Những thành tựu và giới hạn của Lý luận, phê bình Văn học DTTS Việt

Nam từ 1975 đến nay

Sau năm 1975, văn học DTTS - một bộ phận quan trọng của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này (đất nước thống nhất, non sông liền một dải) cũng mang những đặc điểm tương tự như đời sống văn học dân tộc thời hậu chiến. Trong khoảng hơn 10 năm đầu (từ 1975 đến 1986), văn học DTTS nói chung, LLPB văn học DTTS nói riêng - chủ yếu vận động theo “quán tính” của văn học thời chiến (trước 1975). Hệ thống chủ đề, phương pháp sáng tác, quan niệm về cuộc sống, về con người và hệ thống các hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ DTTS trong giai đoạn này chưa có sự thay đổi đáng kể. Và hoạt động LLPB văn học DTTS thời kỳ này cũng chưa có sự chuyển biến rõ rệt về mặt phương pháp cũng như về mặt nhận thức hệ giá trị đa dạng của văn chương nghệ thuật thời kỳ hiện đại. Chính vì thế, LLPB giai đoạn này hoạt động khá thưa thớt, thường ở dạng những bài viết nhỏ lẻ, hoặc những lời đề tựa, giới thiệu những cuốn sách tuyển tập văn học DTTS; hoặc những bài phát biểu chỉ đạo, những bài tham luận của các nhà quản lý văn hóa, của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình… tại các cuộc Hội nghị về văn hóa, văn nghệ các DTTS thời kỳ đó. Đáng kể nhất chỉ có một số cuốn sách có giá trị thực sự (về lý luận và thực tiễn) của nhà thơ Nông Quốc Chấn (như cuốn “Một vườn hoa nhiều hương sắc” (1977) và cuốn “Chặng đường mới” (1985)), còn hầu hết là ở dạng những cuốn sách, các tuyển tập… làm công việc hỗn hợp: vừa giới thiệu tác giả, tác phẩm, vừa bình luận văn chương; vừa sưu tầm, nghiên cứu vừa biên dịch (từ tiếng dân tộc thiểu số ra tiếng Kinh) kèm theo việc bình luận, nhận xét, đánh giá… các sáng tác văn chương của các nhà nghiên cứu, các tác giả sách (thường mang nặng tính “trực giác”, chủ quan bởi chưa có những tiêu chí cụ thể để làm căn cứ cho việc bình phẩm, khen chê). Có thể nói rằng: đây là giai đoạn văn học DTTS chưa có các nhà LLPB mang tính chuyên nghiệp của riêng mình.

Phải tới những năm sau Đổi mới khoảng một chục năm (từ 1986 đến giữa những năm đầu 90 của thế kỷ XX, văn học DTTS nói chung, LLPB văn học DTTS nói riêng mới có sự chuyển biến rõ rệt, mới có sự vận động tương đối nhanh nhạy theo xu hướng “đổi mới tư duy” trong cả lĩnh vực sáng tác lẫn lĩnh vực LLPB. Với sự xuất hiện của một loạt tên tuổi các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu LLPB văn học DTTS - với những tác phẩm mới, những công trình nghiên cứu, những cuốn sách Tiểu luận phê bình mới của những tác giả trẻ trung hơn (bên cạnh các tác giả kỳ cựu, có kinh nghiệm và giàu sức sáng tạo). Tuy nhiên, cũng phải đến giữa những năm 90 và những năm đầu thế kỷ XXI – khi công cuộc đổi mới tư duy thực sự đi vào chiều sâu (qua thời kỳ sôi động, bồng bột ban đầu) - Văn học DTTS, trong đó có LLPB mới thực sự có một sự vận động tích cực, mạnh mẽ, toàn diện hơn và đã thu được những thành tựu đáng được trân trọng và khẳng định.

Thời kỳ này, hoạt động NC, LLPB văn học DTTS đã trở nên khá sôi nổi với sự xuất hiện của một loạt các nhà NC, LLPB, các nhà văn, nhà thơ DTTS cùng một số các nhà NC, LLPB dân tộc Kinh (yêu thích, trân trọng bộ phận văn học giàu bản sắc này) với nhiều tác phẩm, nhiều bài viết, bài nghiên cứu, phê bình về văn học DTTS Việt Nam hiện đại (như: Lâm Tiến, Triều Ân, Hoàng An, Vương Anh, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh, Mai Liễu, Inrasara, Hoàng Vĩnh Cư, Hà Lý, Dương Thuấn, Triệu Lam Châu, Chẩm Hương Việt, Yang Danh, Hlinh Niê,…; Phong Lê, Phạm Quang Trung, Đinh Văn Định, Nguyễn Duy Bắc…). Ngoài những nội dung nghiên cứu, phê bình về các sáng tác của các nhà văn nhà thơ DTTS nhằm chỉ ra những cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc cũng như những hạn chế của các tác phẩm văn chương do các tác giả người DTTS sáng tạo nên - vấn đề lý luận về văn học DTTS cũng đã được một số nhà NC, PB DTTS đề cập, bàn luận và đưa ra những quan điểm có tính chất lý thuyết, lý luận mang tính định hướng cho văn học DTTS thời kỳ hiện đại. Đáng chú ý nhất là các cuốn sách, những bài nghiên cứu, tiểu luận, phê bình của nhà thơ, nhà văn hóa, nhà quản lý văn học nghệ thuật DTTS - Nông Quốc Chấn, nhà NCPB văn học DTTS Lâm Tiến, nhà LLPB Phong Lê, nhà LLPB Nguyễn Duy Bắc… (ví dụ như các bài viết, các cuốn sách: Hành trang sang thế kỷ XXI (2000), Tính thống nhất và đa dạng của văn nghệ các dân tộc (2002) của Nông Quốc Chấn; Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995), Về một mảng văn học dân tộc thiểu số (1999), Văn học và Miền núi (2002)… của Lâm Tiến; “Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ dân tộc thiểu số(1994) của Nguyễn Duy Bắc).

Trong các cuốn sách này, ngoài phần giới thiệu, nghiên cứu về văn học DTTS, phê bình các sáng tác cụ thể của các cây bút DTTS, tác giả (Nông Quốc Chấn, Lâm Tiến và Nguyễn Duy Bắc) đã dần thiết lập một hệ thống lý thuyết, lý luận về văn học DTTS thời kỳ hiện đại. Các vấn đề lý thuyết, lý luận này đã được các tác giả đúc kết từ thực tiễn sáng tác, từ nhu cầu về đời sống văn học của cộng đồng các DTTS, từ yêu cầu của cách mạng Việt Nam đối với đời sống văn học nghệ thuật; và xuất phát từ đòi hỏi cùng yêu cầu của quá trình hiện đại hóa, tiến tới hội nhập quốc tế của đất nước. Và quan trọng nhất là: các vấn đề lý thuyết, lý luận đó lại được bắt nguồn, được soi sáng bởi quan điểm, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin về văn học nghệ thuật nói chung, về văn học nghệ thuật các DTTS nói riêng. Chính vì thế hệ thống lý thuyết, lý luận với những vấn đề cụ thể đã được các ông trình bày trong các bài viết, trong các cuốn sách của mình thường dễ hiểu, có tính thuyết phục - bởi sự chặt chẽ, tính logic, rất thực tế và cũng rất sắc bén. Nó đã trở thành những bài học, những định hướng sáng tác cho các cây bút DTTS nói riêng, cho văn học DTTS nói chung trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Đó là các vấn đề: giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính hiện đại trong quá trình sáng tác, sáng tạo của nhà văn DTTS; vấn đề tiếng nói và chữ viết (sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc hay ngôn ngữ phổ thống (tiếng Việt); hay sáng tác song ngữ?); vấn đề xây dựng đội ngũ các nhà văn DTTS có năng lực sáng tác, có khả năng sưu tầm, nghiên cứu, lý luận phê bình và giảng dạy văn học…

Nhưng, vào cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu, càng rộng (trong đó có lĩnh vực LLPB văn học) thì đòi hỏi càng cần phải có sự đổi mới quyết liệt hơn trong nhận thức, trong quan điểm và trong phương pháp NC, LLPB văn học. Chính vì vậy, công tác NC, LLPB văn học nói chung, NC, LLPB văn học DTTS nói riêng cần phải được nhìn nhận, xem xét lại một cách nghiêm túc; cần phải chỉ ra được những giới hạn phải vượt qua; phải đổi mới mạnh mẽ và quyết liệt hơn để có thể thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình - nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống văn học nghệ thuật ngày càng cao, càng phong phú, càng hiện đại của nhân dân (trong đó có đồng bào các DTTS Việt Nam) trong giai đoạn mới của đất nước. Đứng trước thực tiễn đó, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 23-NQTW (ngày 16 tháng 6 năm 2008) của Bộ Chính trị “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”, “nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quí của văn học, nghệ thuật và của đội ngũ văn nghệ sỹ”. Riêng trong hoạt động lý luận phê bình văn học nghệ thuật, Nghị quyết đã nêu rõ những hạn chế, yếu kém đó đã được chỉ ra một cách cụ thể là: “Hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu về nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng, kém năng động, giảm sút tác dụng tích cực đối với sáng tác…” và: “Hoạt động phê bình văn học nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, thực hiện chưa tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác…”.

Để khắc phục tình trạng “vừa yếu (“tụt hậu”, “lạc hậu”), vừa thiếu (“một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác giả, tác phẩm”…) đó của LLPB văn học, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu và quan điểm chỉ đạo cùng hệ thống giải pháp khắc phục tình trạng trên. Đó là: “Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, phát triển lý luận văn học, nghệ thuật. Kiên quyết khắc phục những yếu kém kéo dài của hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật, nâng cao tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần hướng dẫn, điều chỉnh sáng tác, phê bình văn nghệ…”; và “Tiếp thu có chọn lọc những thành quả lý luận văn học của cha ông và của thế giới, vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại…, phát triển, khích lệ những tìm tòi, tôn trọng những ý kiến khác nhau về lý luận và phê bình văn nghệ vì lợi ích chung và sự phát triển lành mạnh của văn nghệ”.

Trong suốt quá trình 17 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị (từ 2008 đến nay) - hoạt động LL, PB văn học DTTS đã có sự chuyển biến và đổi mới khá rõ rệt, đã đạt được một số những mục tiêu, những thành tựu đáng được ghi nhận. Đó là:

- Trước hết về mặt đội ngũ: đã có một sự bổ sung khá kịp thời, khá phong phú về đội ngũ những người làm NC, LLPB văn học DTTS. Ngoài những cây bút (bao gồm các nhà NC, LLPB, các nhà thơ, nhà văn DTTS (vừa sáng tác, vừa viết NC, PB)) đã xuất hiện từ giai đoạn trước năm 2008, nay vẫn tiếp tục tích cực tham gia viết bài, xuất bản sách NC, tiểu luận, PB văn học (như: Nhà NC PB Hoàng An, Lâm Tiến…, các nhà thơ: Mai Liễu, Mã A Lềnh, Ma Trường Nguyên, Inrasara, Triệu Lam Châu, Nông Thị Ngọc Hòa, Dương Thuấn, Hoàng Quảng Uyên, Y Phương, H’linh Niê Kdăm…); là một loạt các cây bút mới xuất hiện với lòng nhiệt thành, sự năng nổ cùng với những năng lực phân tích, thẩm bình, đánh giá văn chương khá chắc chắn và bài bản. Họ là những cán bộ giảng dạy trong các trường đại học, các cán bộ khoa học trong các Viện Nghiên cứu, các giáo viên dạy Văn các trường Phổ thông Trung học. Có thể kể tên một số nhà NC, LLPB văn học DTTS có nhiều đóng góp trong giai đoạn này như: PGS.TS Phạm Quang Trung, PGS.TS Trần Thị Việt Trung, PGS. TS Lê Thị Bích Hồng, PGS.TS Đào Thủy Nguyên, PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng, PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh, Nhà NC, PB Chử Lương Đào, TS Đỗ Thị Thu Huyền, TS Nguyễn Kiến Thọ, PGS.TS Cao Thị Hảo, TS Nguyễn Thị Thu Hoài, ThS Lộc Bích Kiệm,…

Những nhà NC, PB văn học DTTS trong giai đoạn này có “tính chuyên nghiệp” rõ rệt. Họ là những nhà khoa học xã hội và nhân văn, vừa làm công tác nghiên cứu, vừa giảng dạy; có khả năng tiếp cận và đam mê với những tác phẩm văn học DTTS, với những nhà văn, nhà thơ người DTTS, với nền văn hóa của cộng đồng các DTTS. Chính vì vậy, với những “vốn” về lý thuyết, lý luận và thực tiễn, với niềm đam mê và trân trọng những sáng tác của những nhà văn DTTS thời kỳ hiện đại - họ đã viết, đã đăng tải khá nhiều bài trên các Tạp chí, các báo về văn học, nghệ thuật trung ương và địa phương; đã xuất bản hàng trăm cuốn sách (in riêng và in chung) viết về mảng văn học DTTS và miền núi; đã có nhiều bài tham luận về vấn đề văn học DTTS trong các Hội thảo khoa học trong và ngoài nước… Về mặt quy mô và nội dung đã có khá nhiều cuốn sách NC, PB về văn học DTTS (thời kỳ hiện đại) dày từ 500 trang đến 1000 trang in - nghiên cứu về quá trình vận động và phát triển, chỉ ra những quy luật vận động, những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật, những sáng tạo, những đóng góp mới, những nét đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa các DTTS trong các sáng tác của các nhà văn người DTTS. Đồng thời, cũng chỉ ra những giới hạn, những nhược điểm của bộ phận văn học này - đòi hỏi cần phải khắc phục để có thể đưa bộ phận văn học này đủ sức hòa nhập vào dòng chảy chung của văn học Việt Nam đương đại hôm nay.

Về mặt phương pháp nghiên cứu, phê bình: Trong giai đoạn này, các cây bút NC, PB đã có sự cập nhật sâu hơn về lý thuyết, lý luận NC, PB của thế giới (hiện đại và hậu hiện đại) với nhiều phương pháp, nhiều góc độ tiếp cận các sáng tác của các nhà văn DTTS. Để từ đó, có thể giải mã những tín hiệu thẩm mỹ, những giá trị ẩn sâu trong tác phẩm qua việc phân tích sâu sắc hơn, tinh tế hơn, mang tính khoa học hơn những sáng tạo, những vẻ đẹp, những ý nghĩa nhân văn của các tác phẩm văn chương do các nhà văn DTTS sáng tạo nên. Với phương pháp nghiên cứu, phương pháp tiếp cận mới này (cởi mở hơn, mang mầu sắc hiện đại và dân chủ hơn), các nhà NC, PB văn học DTTS đã “phát hiện” ra nhiều giá trị mới, khẳng định nhiều đóng góp, chỉ ra những sáng tạo độc đáo, đáng trân trọng của các cây bút người DTTS trong giai đoạn văn học đặc biệt này. Ví dụ như: vẻ đẹp văn hóa, giá trị nhân văn, vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội, phê phán sự tha hóa trong lối sống, trong nhân cách, trong tâm hồn; sự tha hóa quyền lực… của con người miền núi trước tác động (mặt trái) của cơ chế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế nhanh, mạnh tới cuộc sống và con người miền núi.

Dưới nhiều góc nhìn, điểm nhìn khác nhau về hiện thực và con người miền núi; với nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với những tác phẩm văn chương do các tác giả người DTTS sáng tạo nên như: từ góc độ văn hóa, từ góc độ sinh thái, từ điểm nhìn đa chiều về con người và hiện thực, từ quan điểm nữ quyền, từ cái nhìn hiện sinh…; cùng các cách tiếp cận tác phẩm phong phú, đa dạng như: từ nội dung tác phẩm (theo quan điểm truyền thống) đến ngôn ngữ nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, hệ thống các biểu tượng nghệ thuật, đến nghệ thuật kết cấu cốt truyện, nghệ thuật cấu trúc thể loại…). Vì vậy, các bài viết, những công trình nghiên cứu phê bình về văn học DTTS giai đoạn này khá phong phú, sâu sắc, không khô khan, xơ cứng (hoặc giáo điều). Bản thân những bài viết, cuốn sách NC, PB văn học đó cũng trở thành những tác phẩm văn chương có hồn, có sức hấp dẫn người đọc, đặc biệt là những người đọc luôn quan tâm, yêu quí và trân trọng vẻ đẹp riêng bởi sự mộc mạc, chân chất nhưng đặc sắc, mang đậm bản sắc tộc người của các DTTS Việt Nam. Có thể kể tới một số những công trình nghiên cứu đó như: Hồn cây sắc núi (Phạm Quang Trung); Hương sắc miền rừng (Mai Liễu); Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - một số đặc điểm (Trần Thị Việt Trung - chủ biên); Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số (Trần Thị Việt Trung); Văn học dân tộc thiểu số - truyền thống và hiện đại (Nguyễn Đức Hạnh - Trần Thị Việt Trung); Những người tự đục đá kê cao quê hương, Hoa chuối đỏ từ miền rừng Phia Bjoóc (Lê Thị Bích Hồng); Thơ dân tộc Tày sau năm 1945 (Đỗ Thị Thu Huyền); Y Phương - Sáng tạo văn chương từ nguồn cội (Lê Thị Bích Hồng - Đỗ Thị Thu Huyền - Nguyễn Huy Bình); Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (Đào Thủy Nguyên - Chủ biên); Thơ ca dân tộc H’mông - từ truyền thống đến hiện đại (Nguyễn Kiến Thọ); Văn học các dân tộc thiểu số - một bộ phận đặc thù của văn học Việt Nam (Lộc Bích Kiệm); Văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Cao Thị Hảo - Đào Thủy Nguyên); Văn học địa phương miền núi phía Bắc (Nguyễn Đức Hạnh - Chủ biên),…

Bên cạnh đó là hàng trăm bài NC, PB in đăng trên các Tạp chí, báo Văn nghệ, trong các cuộc hội thảo quốc gia, quốc tế, khu vực… như: Hồn Mường trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh (Thy Lan), Niê Thanh Mai – thế hệ nhà văn Tây Nguyên thế kỷ XXI (Trần Thị Việt Trung - Chu Thị Quyên); Vấn đề ngôn ngữ, song ngữ trong văn học dân tộc thiểu số (Hà Công Tài); Sáng tác thơ song ngữ trong niềm tự hào, tự tôn văn hóa dân tộc của nhà thơ Tày Y Phương (Hoàng Huệ Dinh); Nét tinh hoa trong văn hóa truyền thống và sự tiếp biến với văn hóa Việt trong thơ Mai Liễu (Nguyễn Đức Hạnh, Nông Lan Hương); Thơ ca hiện đại vùng Việt Bắc - nơi lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập (Nguyễn Đức Hạnh); Đội ngũ văn nghệ sỹ Khmer với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống (Thanh Đờ Ni); Văn học các dân tộc thiểu số trong gia đình văn học Việt - Riêng và chung trong đa dạng và thống nhất (Phong Lê); Mã A Lềnh - người luôn hướng về cội nguồn văn hóa để sáng tạo tác phẩm; Đau đáu nỗi niềm về thân phận người phụ nữ Mường trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh, Hình tượng người phụ nữ và người lính dân tộc thiểu số trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan, Bữa tiệc tình yêu trong thơ Lò Ngân Sủn,… (Trần Thị Việt Trung); Tiểu thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn dưới góc nhìn văn hóa (Cao Thành Dũng – Nguyễn Đức Hạnh); Truyền thống và cách tân trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện văn xuôi hiện đại dân tộc Thái (Nguyễn Thị Hải Anh); Chất tạo hình trong ngôn ngữ thơ Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn (Nguyễn Phương Ly - Đào Thị Lý); Vi Hồng với sự tiếp cận chủ nghĩa huyền ảo (Hồ Thủy Giang); Tâm thức rừng trong văn học trẻ dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên (Đỗ Thị Thu Huyền); Cảm quan sinh thái Tây Nguyên trong thơ Bùi Minh Vũ (Trần Hoài Anh); Thơ Tày hiện đại - Dòng riêng giữa nguồn chung (Nguyễn Thúy Quỳnh); Thổ Phỉ - tiểu thuyết đậm nét đặc trưng thể loại (Lộc Bích Kiệm); Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng (Nguyễn Thị Thu Hiền); Cảm hứng nhân văn trong tiểu thuyết Vi Hồng (Đào Thủy Nguyên)…

Thông qua các cuốn sách, các công trình nghiên cứu, các bài viết NC, PB về văn học DTTS của các tác giả trên - rất nhiều người, nhiều độc giả đã quan tâm hơn, hiểu hơn và thêm yêu thích những sáng tác của các nhà văn DTTS. Các nhà NC, PB này đã thực sự là “chiếc cầu nối” cho các tác phẩm văn chương do các nhà văn DTTS sáng tác đến với nhiều đối tượng độc giả khác nhau. Đồng thời, cũng thông qua các bài viết, các công trình nghiên cứu của họ về văn học DTTS mà nhiều người; nhiều độc giả trong và ngoài nước đã biết tới những tác phẩm văn chương đặc sắc, đậm sắc mầu dân tộc và miền núi… có hứng thú khi tiếp cận với bộ phận văn học đặc biệt này với những cách, những phương thức tiếp cận mới (hiện đại hơn, đa chiều hơn, khách quan hơn…). Từ đó, cũng đã phát hiện ra nhiều giá trị mới, nhiều vẻ đẹp mới và cũng đã đặt ra những yêu cầu mới đối với các cây bút người DTTS (và miền núi) trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

3. Một số giới hạn

Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định (như đã nêu trên), nhưng LLPB văn học DTTS trong 50 năm qua cũng có một số nhược điểm, một số giới hạn cần phải chỉ ra, cần phải quan tâm để có thể tìm ra hướng giải quyết đúng đắn, hiệu quả, phù hợp với quy luật vận động, phát triển của đời sống văn học DTTS nói riêng, đời sống văn học của đất nước nói chung trong giai đoạn mới. Đó là một số hạn chế, giới hạn sau:

Về đội ngũ:

Thứ nhất, cho tới nay, dù đã được liên tục bổ sung các cây bút nghiên cứu LLPB văn học DTTS từ các Trường đại học, các Viện nghiên cứu nhưng đội ngũ này vẫn còn ở trong tình trạng thiếu hụt, chưa thực sự chắc chắn và chưa bền vững - bởi nhiệm vụ chính của họ là công tác giảng dạy, nghiên cứu trong trường đại học. Họ chưa thể “toàn tâm, toàn lực” giành cho việc nghiên cứu, phê bình văn học các DTTS - như là một nhiệm vụ bắt buộc (không có cơ chế hoạt động phối hợp với các Hội chuyên ngành của trung ương, của địa phương về lĩnh vực này; không có những chính sách riêng để “ràng buộc”, để “khai thác nguồn tài nguyên quý giá” này ở họ….). Chính vì thế, ngay cả những nhà NC, LLPB có tính chuyên nghiệp này cũng chưa thực sự tập trung cao độ vào việc nghiên cứu văn học DTTS và cũng chưa có nhiều đóng góp lớn và đều đặn cho hoạt động có tính đặc thù này của văn học DTTSVN hiện đại.

          Thứ hai, vấn đề về nguồn nhân lực từ các cây viết vốn là các nhà văn, nhà thơ người DTTS, là những người am hiểu, yêu quí và tự hào về tiếng nói văn chương của dân tộc mình. Họ không phải là những nhà NC, PB chuyên nghiệp, nên các bài viết, các cuốn sách NC, PB của họ thường mang tính “trực cảm”, tính chủ quan, khen chê… một cách khá cảm tính - bởi họ không được trang bị lý thuyết, lý luận cơ bản, không cập nhật thường xuyên, không ứng dụng một cách thành thạo các phương pháp nghiên cứu mới, hiện đại của thế giới hiện nay. Vì thế, đội ngũ NC, PB này – bên cạnh những mặt mạnh (am hiểu, cảm nhận tinh tế tác phẩm) là những mặt hạn chế như: thiếu tính khoa học, ít ứng dụng lý luận, lý thuyết…. Hơn nữa, với các cây bút “phê bình tự túc” này, công việc NC, PB không phải là nhiệm vụ chính của họ nên việc viết bài, xuất bản sách LLPB không đều đặn, có tính tùy hứng, chủ quan và chất lượng nhìn chung là chưa thực sự đảm bảo về mặt khoa học, về tính khách quan…

Thứ ba là sự phân bố lực lượng NC, PB không đồng đều giữa các vùng, các khu vực văn học trong toàn quốc. Hiện tại, hầu hết các cây bút NC LLPB văn học DTTS đều tập trung ở Hà Nội và các trường Đại học thuộc khu vực phía Bắc Việt Nam. Vì thế, việc NC, PB văn học DTTS cũng tập trung nhiều hơn, sâu hơn ở khu vực miền núi phía Bắc (văn học các dân tộc Tày, Nùng, Dao, H Mông, Mường, Thái…); còn ở các vùng văn học khác như: Tây Nguyên, Tây Nam Bộ… hoạt động NC, LLPB chưa thực sự mạnh, nếu như không nói là ít ỏi, thiếu vắng. Vì vậy, các kết quả nghiên cứu, sự đồng hành cùng sáng tác, sự động viên, định hướng của LLPB với sáng tác ở những khu vực văn học này cũng còn có nhiều hạn chế.

Về phương thức hoạt động và chất lượng tác phẩm

Dù đã hoạt động trong nửa thế kỷ (kể từ năm 1975 đến nay) những chuyên ngành NC LLPB văn học DTTS vẫn chưa có một tổ chức hoạt động mang tính chuyên biệt của mình. Hoặc là hoạt động theo hoạt động chung trong các Hội Văn học nghệ thuật của địa phương; hoặc là hoạt động dưới sự chỉ đạo chung của Hội đồng Lý luận phê bình Trung ương đối với đội ngũ những người làm LLPB văn học nghệ thuật toàn quốc nói chung. Vì thế, dẫn đến việc: không có chiến lược phát triển, không có kế hoạch cụ thể cùng các chương trình hoạt động trung hạn, ngắn hạn cùng các nhiệm vụ được giao, được yêu cầu, được đặt hàng…từ các tổ chức Hội (Trung ương và địa phương) về đề tài nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và kết quả nghiên cứu. Vì vậy, các sản phẩm (các bài viết, sách, công trình nghiên cứu về văn học DTTS) - hoàn toàn là do các nhà NC, LLPB, các nhà văn… tự mày mò, tự tìm tòi, tự tổ chức nghiên cứu, in ấn và xuất bản sách. Do vậy, dẫn đến tình trạng người nghiên cứu phê bình yêu thích, đam mê mảng văn học dân tộc nào, sáng tác của nhà văn nào…thì sẽ chọn làm đối tượng nghiên cứu phê bình của mình. Điều này sẽ dẫn đến vấn đề thiếu sự nghiên cứu, phê bình tổng thể, thiếu cái nhìn khái quát và còn nhiều mảng văn học DTTS chưa được tổ chức khảo sát, nghiên cứu kỹ…

Về chất lượng tác phẩm NC, PB văn học DTTS

Nhìn chung các tác phẩm NC, PB văn học DTTS mới chỉ ở mức trung bình và khá. Cho tới nay, chưa xuất hiện các tác phẩm NC, PB LLPB văn học DTTS thật sự xuất sắc, gây tiếng vang trong đời sống LLPB toàn quốc. Các nhà LLPB văn học DTTS có những tác phẩm, công trình nghiên cứu, phê bình có giá trị (về lý luận và thực tiễn) và có uy tín trong đội ngũ những người làm công tác LLPB quốc gia chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn có nhiều tác phẩm LLPB văn học DTTS mới dừng ở mức độ lược tả, miêu tả quá trình vận động, phát triển của văn học DTTS; bình luận, phân tích, khen chê…các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ DTTS một cách khá dễ dãi, không có hệ thống tiêu chí khoa học để đánh giá một cách khách quan. Có một số cây viết LLPB không thường xuyên cập nhật lý thuyết, lý luận mới, hiện đại của phương Tây để ứng dụng vào việc NC, PB sáng tác của các tác giả DTTS - nhất là các cây bút trẻ, có những đột phá về phương pháp sáng tác. Vì vậy, vẫn có bài, có những cuốn sách NC, PB văn học DTTS ít giá trị và lạc hậu so với sáng tác.

4. Kết luận

Với sự cố gắng, nỗ lực và bền bỉ; với những quan điểm, những phương pháp NC, PB (vừa có nét chung, vừa có nét riêng) của các nhà NC, LLPB về văn học DTTS trong suốt 50 năm qua, đặc biệt trong gần 40 năm Đổi mới, có thể khẳng định: Dù còn có những giới hạn nhưng hoạt động NC, LLPB văn học DTTS đã có nhiều khởi sắc, đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ và có sự đổi mới rõ rệt trong việc vận dụng các loại lý thuyết, lý luận mới, hiện đại của thế giới vào việc nghiên cứu, phê bình văn học DTTS. Từ đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong phú, lành mạnh của bộ phận văn học DTTS Việt Nam hiện đại - đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đồng bào các DTTS nói riêng, của bạn đọc cả nước nói chung trong việc thưởng thức các tác phẩm văn học, nghệ thuật đậm sắc màu các DTTS Việt Nam, vừa giàu tính truyền thống vừa mang tính hiện đại trong thời hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hôm nay.

 

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy