Chủ nhật, ngày 08 tháng 06 năm 2025
17:01 (GMT +7)

Thơ tự sống, thi nhân tự lớn với nhân gian

 (Đọc Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê trong dịp 50 năm giang san thu về một mối)

Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền và Du Tử Lê là những nhà thơ nổi trội nhất của thơ miền Nam trước 1975 và thơ người Việt ở ngoài nước sau 1975 có liên hệ sinh tử với cuộc chiến tranh chống Mỹ giành thống nhất Việt Nam. Ghi nhận đóng góp của ba thi sĩ ấy trong nền thơ ca Việt là việc làm của những nhà nghiên cứu phê bình. Nhưng tôi nghĩ, nhân gian cũng là cửa ải của thơ, chỉ lưu lại nuôi dưỡng những bài thơ, những thi nhân động chạm đến niềm mong mỏi của con người. Người Việt yêu thơ như yêu lòng nhân ái, sự cao sang, khát vọng tự do, trời yên biển lặng bờ cõi giang san… Thi ca và thi nhân chạm đến nỗi niềm này sẽ lớn lên trường tồn trong tộc Việt như ca dao tục ngữ ngàn đời vẫn ngọc ngà hiển hiện mỗi ngày vậy.

Tô Thùy Yên - Ánh tàn dư tịch mịch long lanh

Thơ Tô Thùy Yên có lẽ không nhiều - 86 bài (36 bài Thơ tuyển 1995, 44 bài Thắp tạ 2004, và một số bài không nằm trong 2 tập thơ này). Nhưng đọc Tô Thùy Yên thấy sừng sững một thi nhân. Dường như mỗi bài thơ, thậm chí một khổ thơ, một câu thơ của ông, đều gieo vào lòng người đọc nỗi niềm nào đó đau đáu nhớ thương, suy tư luyến tiếc, vỗ về bao dung cảm thán, đớn đau khắc khoải. Không ít bài thơ của ông chất chứa nỗi niềm, ngồn ngộn ưu tư, miên man lưu thủy khiến cho người đọc bất giác thảng thốt ngước nhìn. Không ít bài thơ của ông như “dát hoàng hôn” khiến người đọc sững sờ kinh ngạc.

Thơ tự sống, thi nhân tự lớn với nhân gian
Thơ tự sống, thi nhân tự lớn với nhân gian

Có rất nhiều điều khiến cho thơ ông rung động lòng người. Nhưng tôi có cảm nhận rằng điều ông muốn gieo vào lòng nhân gian nhất chính là khát vọng “Ta đi” mà ông gửi gắm trọn vẹn trong bài Ánh tàn dư. Ông khiến ta được tận hưởng niềm vinh quang thả mình như cơn gió phơi phới hoan lạc mênh mang trời đất lạ. Con đường mở từ lòng đầy ắp thời gian, không gian, trăm năm tự tại “già vô thủy, trẻ vô chung” khiến ông không kìm nén được những lời ca “chưa từng ai hát trong trời đất”; khiến ông niềm thấu cảm vô bờ với cuộc đời.

“Ôi có hừng đông nào chẳng làm ta muốn khóc?/ Một ngày nữa xuống với đời ta/ vui biết mấy/và cũng buồn biết mấy. Không chỉ có vậy, ông “nhìn lửa nhớ tiền thân”, hằng đêm “đầu đẫm trắng sao sa”. Để rồi chợt nhận ra “đời ta sáng mượn ánh tàn dư/Đến từ một hành trình tắt nghỉ”.  Nên ông quyết đi qua những cánh cửa lớn lao mở và đóng nhanh đến mức tưởng chừng không đóng mở; kín như bưng tưởng chừng không có cửa, chỉ mong nhìn được thế giới diệu kỳ trong khoảng sáng buồn rầu của một que diêm. Mà không bận tâm đến ngày “Mây, gió, chim bay không có ta cùng theo”.

Câu “Ôi điều ước mơ cùng thiên thu họa hoằn người sực nhớ ra chưa?” lặp lại chốt chặn bài thơ, tôi không rõ Tô Thùy Yên muốn gửi đến người đọc, muốn nhắc nhớ mình, hay muốn tri ân “thân đá địa đầu mù” khắc “lời từ biệt dị thường” nơi cổ tự? Dẫu gì, lời nhắn gửi này cho thấy Tô Thùy Yên không chỉ hào sảng với tâm thế sáng rỡ từ tiền nhân, mà còn thấu rõ thiên nhiên mới là vĩnh hằng với tận cùng bi tráng. Thiên nhiên mới là nơi nương tựa, trải lòng, đón nhận chở che mọi kiếp người.

 “Những thân đá tiên tri già hôn mê vạn đại/Đứng rải/Đường ta đi/Như những thân bằng chờ đưa tang lễ lớn/Ruỗng tâm can/khóc thầm đời bể dâu.../Ta cũng khóc một chiều nào/Ôm chầm lấy đá/Thương cho ai/Thương cho ai...”.

Có thể thấy Ánh tàn dư là lẽ sống, là cách tiếp cận của ông với cuộc đời. Giống nòi cũng như nhân loại, tồn vong nhờ sự nối tiếp của những kiếp người. Tô Thùy Yên hăm hở đón nhận, can trường vượt qua mọi trở ngại, trải lòng với đất trời cây cỏ vĩnh hằng.                                                                                                                      

Tâm thế lớn lao này bàng bạc trong thơ Tô Thùy Yên. Ông tự hào làm một gã du hành “uống giếng nước hoang ăn trái lạ, tâm hồn mãi mới tinh khôi, ra đi như một âm thanh sáng, xuyên suốt tâm linh, dội cảm sầu”. (Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai). Ông giục giã “Chú bé của ta ơi, đem tấm lòng trang trải với đời, yêu cả con sâu cùng cái kiến, thả hồn vào cỏ lá bung phơi”. (Đãng tử).

Khát khao xác tín con đường dẫn tới hạnh phúc được là chính mình không dễ. Tô Thùy Yên từng hối tiếc “vì cớ gì mà chẳng thả mình đi?”, “sao chẳng đứng riêng ra rực chất sáng của mình”? (Những thành phố mà ta không ghé lại - Sài Gòn, 1988 Saint Paul, 1994). Ông từng âu lo “Em qua rồi núi, qua rồi biển/Gặp gì thêm ngoài núi biển ra?/Hay vẫn bàn tay vô cảm ấy/Mơn man đau rát tận cùng ta”. (Em đi - 4/2005). Ông từng ao ước được ngắm trước những con đường trước khi đi trọn, một lần thấu suốt định mệnh trước ngày ly biệt nó.

“Ôi kiêu hùng chiến mã/Ôi hăm hở cỏ non/Giờ đây ngã quỵ, giờ đây héo xàu/Dưới chân tuổi hạc/Cao chất chồng thây xác những đam mê” (Bất tận cuộc đời hung hãn đó - 7/1992).

Ông cũng tự vỗ về. “Làm sao đi hết những con đường?/Gió với cây cùng khóc hợp tan/Mỗi đóa hoa trên đồng chói lọi/Cũng xui phù thế ngậm ngùi thân” (Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc - 4/1974).

Đi như kẻ thừa kế mới của tiền nhân, Tô Thùy Yên đem theo những đoạn trường riêng đời mình với những ngã rẽ ngậm ngùi cả đời phải hối; những ngã rẽ đắng cay bi thảm buộc phải “bứt ruột mà đi” như tù đày xa xứ.

Ta gọi rụng rời thân ta lạc/Ta còn chẳng đủ nửa ta đây”/“Mai này xô giạt về đâu nữa/Đất lạ ơi, đừng hắt hủi ta!.

Trong thảng thốt ông khẩn thiết kêu gọi “Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục/Cho tiếng rền vang dậy địa cầu/Lay động những tầng mê sảng tối.../Loài người, hãy thức, thức cùng nhau’’. Lạ lùng thay, trong muôn nỗi ê chề rơi lệ đó Tô Thùy Yên vẫn le lói trong lòng nỗi hiền lương.

“Đất lạ, người ta sống thế nào?/Trong lòng có sáng những trăng sao/Có buồn bã lúc mùa trăn trở/Có xót thương người qua biển dâu” (Tàu đêm – 1980).

Hay những dồn nén đến ngạt thở, những mong ước mơ hồ thời khắc bắt đầu suốt “10 năm chết dấp” đã tạo nên “Ta về - một bóng trên đường lớn” lay động lòng người?

Tô Thùy Yên có tới 4 lần trở về ngôi nhà mình, nhưng Ta về là một khác biệt lớn lao. Về từ lao tù, về từ tịch mịch.

Như một linh hồn “nghe nặng từ tâm lượng đất trời”, Tô Thùy Yên “Cảm ơn hoa đã vì ta nở/Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. Như lá rơi về cội, ông xin rưới chút rượu hồng “giải oan cho cuộc biển dâu này. Như tứ thơ xiêu tán, ông chấp nhận lãng quên, cõi đời trống trải. “Ai đứng trông vời mây nước đó/Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ” khiến đọc ngỡ ngàng nhận ra dân tộc Việt không chỉ có nàng Tô Thị mà còn có những trượng phu trông vời mây nước ngàn năm.

Có thể thấy Ta về (7/1985) như một như một dấu lặng thẳm sâu bản tính con người Việt. Đi qua đớn đau sinh tử lòng người bỗng rõ ràng hơn nghĩa đất trời, thầm lặng bao dung cả bể dâu, cốt nhục tào khang khăng khít, giọt sương làn gió ánh trăng cũng là mình. Đi qua đau đớn sinh tử bỗng thấy lòng rộng mở ngay khi một bóng trên đường lớn vẫn tiếc cho cuộc đời hữu hạn không đủ trải hết lòng. Khiến cho người đọc phải lần giở lại những câu thơ khác của ông.

Tàn trận, ngồi sảng hoàng giữa bãi xác bạn, thù/Khóc loạn trí/Chính nghĩa nào thay được mạng người đây?” (Hành giả âu sầu).

Đến năm 2005, ông vẫn khuôn nguôi nỗi niềm này “Một thời lịch sử bỏ bùa ngươi/Cho ăn nằm rời rã.../Ma dại thân tàn, quẳng cửa sau/Trời đất lỗi lầm/Ngươi đứng ra ngậm ngùi xác chứng” (Bụi đời - 3/2005). Đó là nỗi chua xót của người khi nhận ra sự thật phũ phàng phải gánh chịu bởi u mê của chính mình trước thời cuộc lọc lừa tàn nhẫn.

Tô Thùy Yên còn lần thứ hai “bứt ruột ra đi”, không đau đớn tù đầy, mà đớn đau biệt xứ.

Anh lên đường/cúi mặt lên đường/Giả tảng không nhìn nỗi sỉ nhục”/“Anh ra đi gắng gượng chút hơi tàn/ Hân hoan ròn rã/ Để người ngoài khỏi phải xót xa lây. (Giã biệt – cuối 93).

Lần biệt xứ này không có Ta về. Nhưng thơ của ông đã về. Đó cũng là sự trở về đúng nghĩa - Cuộc đời ông còn lại ở thơ. Đó là những chặng đường tuổi hạc xứ người không ít thương cảm.

Giành giật đổ máu từ chữ một, Tô Thùy Yên để lại cho người đọc những câu thơ như ca dao tục ngữ, những bài thơ thẳm sâu long lanh không tì vết trong Ánh tàn dư, Ta về, Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, Hề, ta về lại ngôi nhà cỏ, Vườn hạ, Đi về, Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoaiLễ tấn phong tình yêu cũng vậy. Chỉ với 20 khổ thơ, chàng thi nhân 23 tuổi đời dường như đã cô đặc cả một trường ca. Từng chữ từng chữ một đều thẳm sâu vời vợi lắng vào lòng người.

Trước Lễ tấn phong tình yêu một năm, khi mới 22 tuổi đời, Tô Thùy Yên đã có niềm ước ao rất đỗi lạ lùng với thơ của mình.

“Bằng mỗi lời độc nhất/Tôi kề tai tiết lộ với từng người/Những điều không lặp lại/Bài thơ như lá sâm” (Thi sĩ - 1960).

Thanh Tâm Tuyền - Đỉnh non xa ngôi nhà đỏ trăng hồng

Thanh Tâm Tuyền có Tôi không cô độc (1956), Liên - Đêm - Mặt trời tìm thấy (1964) và Thơ ở đâu xa (1990). Phần lớn thơ của ông sáng tác tại Việt Nam, với âm hưởng của một thi sĩ khát khao tìm “tự do” cho thơ. Âm hưởng này đậm đặc đến nỗi người đọc cảm thấy ông làm thơ để bênh vực cho khát vọng này (ngoại trừ Thơ ở đâu xa).

Thanh Tâm Tuyền đường bệ tuyên ngôn “Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền”.   Ông giác ngộ sâu sắc về vương quốc thơ tự do “phải có tự do chỉ có tự do/không chúng tôi thành súc vật”. Với “cả tôi là tự do” ông dấn thân, tình nguyện “làm tên lính nhỏ tiên phong/cầm cờ và ca hát”, ông chấp nhận hy sinh cho cuộc đấu tranh này.

không chết trần truồng không thể được/chúng tôi đập vỡ những hình hài/cuộc sống phải thừa như không khí/cuộc sống phải thừa như sớm mai”/“xin trao thi sĩ vòng hoa tặng/chúng ta đã thắng giữa cuộc đời.” (Về Quách Thoại).

 “Khắc tự do vào mỗi tâm hồn” Thanh Tâm Tuyền đặt niềm tin vào mùa xuân. Ấy là lúc người sống, linh hồn người chết tề tựu cùng thành thi sĩ. “một phút là thi sĩ/đủ sáng tâm hồn đầy cuộc đời”. Họ “nối kết bằng âm thanh/nối kết bằng ánh sáng/nối kết bằng tự do/bằng cườm tay mắt nhìn/bằng tim đập hơi thở/không ai còn cô độc”. (Tôi không còn cô độc).

Đó là lúc người thi sĩ “bắt đầu cơn điên đầm ấm”. Còn gì hạnh phúc hơn khi tâm hồn được giải phóng, hòa với đất trời, với tình yêu viên miễn; như còn chim bị giam trong lồng ngực vừa được bay mau hơn ánh sáng.

Sống thường trực bằng hình ảnh, Thanh Tâm Tuyền có nhiều bài thơ được dựng lên bằng vạn vật, khiến người đọc Việt vốn tư duy bằng tình cảm khó nắm bắt. Nhưng còn có không ít bài thơ tự do lắng lại lòng người. Đỉnh non xa, Lệ đá, Thầm nhủ, Vỹ tuyến, Đêm, Tôi không còn cô đơn, Vẫn em, Cỏ… là những bài như thế.

Một Thanh Tâm Tuyền dung dị bước xuống đời:

Hôm ta từ núi cao đi xuống/Trời phả sương mê lạnh nhạt hồn/Đá vách ngún mây kiêu bạc hống/Nhập nhoà tiếng ngậm bặt tang thương.” (Đỉnh non xa - 1974).

 Một Thanh Tâm Tuyền thương cảm: 

đôi khi anh muốn tin/ôi những người khóc lẻ loi một mình/đau đớn lệ là những viên đá xanh/tim rũ rượi.” (Lệ đá).

Một Thanh Tâm Tuyền đắm đuối gửi trao:

Vẫn em thoáng trắng mây hiền hậu/Ngẩn ngơ soi mặt biển điêu linh/Vẫn em đoá quỳnh run hoảng nở/Hương thầm choàng riết cõi đêm ta.” (Vẫn em - 1973).

Hơn thế, có một Thanh Tâm Tuyền tột đỉnh thăng hoa với thiên nhiên và suy tư hòa quyện ngọt ngào. Ngôi nhà đỏ, trăng hồng (1/1972) lung linh ở đó. Làm sao có thể chọn được câu thơ, khổ thơ nào hay nhất bài thơ này? Vẫn ăm ắp đất trời, chứa chan tình ý, chấm phẩy bất tận mà ảo diệu thiên thai. Người đọc thôi miên buông hồn vào đó.

Kẻ lạ mặt bỗng đêm mai hoảng thức,/Thấy ngôi nhà bằn bặt cháy như tim./Đồi giông gió lay trăng hồng lả thiếp./Và hàm hồ buột giấc khóc êm.”

Đừng khêu lửa. Chân mập mờ bước sóng./Buồng tim ta lửa ngún phủ thê lương./
Đừng khêu lửa. Ngọn lắt lay toả bóng./Buồng tim ta sáng quắc ánh băng
”.

Ngôi nhà đỏ, trăng hồng khiến người đọc cảm nhận được góc khuất mơ màng huyền ảo trong con người tưởng chừng chỉ có sục sôi tranh đấu, đơn độc cô liêu Thanh Tâm Tuyền. Thơ tự do của ông hướng tới mượt mà nồng ấm.

Còn có một Thanh Tâm Tuyền gắn bó với cuộc sống thực. Thơ ở đâu xa gần như là nhật ký tâm trạng những ngày tù đầy, với đầy đủ ngày tháng, địa điểm, thời gian, công việc cho thấy ông chấp nhận cuộc sống tù đầy dẫu còn phảng phất nỗi nhớ tự do xưa.

 “Vẫn em của thuở trăng nào/Đêm hôm nở đón chiêm bao xanh ngần/Vẫn em tình của trăm năm/Đoan trang nét hạnh, thâm trầm dáng thơ/Vẫn em mối kết thiên thu/Vẫn em xoa dịu sầu tư cõi này.” (Thơ tình trong tù).

Âm hưởng này khiến người đọc bất giác cảm thán về ngày tháng Thanh Tâm Tuyền chia sẻ thời cuộc nước nhà.

Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc/vậy em biết không. Mà Tổ quốc ngàn đời nín thở/Vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết.” (Nói về dĩ vãng);

 “Tôi chờ đợi/ phổi đầy lửa cháy/môi đầy thẹn thùng/vục xuống nhục nhằn tổ quốc” (Bài thơ ca ngợi tình yêu).

Đấu tranh bất tận cho thơ tự do, Thanh Tâm Tuyền cũng nghĩ về thơ theo cách chẳng giống ai như vậy.

“hoàn thành bao nhiêu tác phẩm/chỉ để sau rốt kết luận một lời/anh hãy từ biệt mọi người bằng tác phẩm của anh/một câu thơ hay tự nhiên như lời nói/bài thơ hay là cái chết cuối cùng.” (Định nghĩa về một bài thơ hay).

Du Tử Lê xin biển Đông đón mẹ tôi về

Trang mạng Thi viện cho tôi cơ hội đọc Du Tử Lê một lần. Làm sao ông có một trái tim thơ suốt cả cuộc đời không ngắn, không êm đềm ưu ái? Hay chính cuộc đời gắn liền với thời khắc lịch sử dân tộc Việt phải khốn khổ giằng co tự cứu lấy mình giữa muôn trùng cạm bẫy đã cho ông những trải nghiệm dẫu có đắng cay cũng là sự thật phải nhận, phải dấn thân? - “bàn tay mang ngón tật nguyền/đôi chân cắt bỏ chôn miền biển xa/mắt ngọn nguồn – lệ hoang vu/trái tim tươi rói thiên thu vẫn còn.” (Tật nguyền – 1989).

Cuộc đời ông gắn liền với sinh ly tử biệt. Sinh ly tử biệt bởi cuộc chiến chống Pháp ngay tại mảnh đất chôn nhau cắt rốn bên sông Đáy. Đó là điểm khởi đầu đẩy ông trôi dạt về phương Nam, đưa chân vào cuộc chiến ý thức hệ rạch đôi sơn hà dân tộc. Để rồi ông thật sự phải tha hương.

Và chính trong những năm tháng tha hương ấy, Du Tử Lê có đủ thời gian chiêm nghiệm về lẽ đời với tất cả những khuất sâu khó thấy trong những năm tháng còn phải lăn lóc tồn tại cùng súng đạn. Bởi thế người đọc dễ nhận thấy một Du Tử Lê lắng đọng, từng trải, thấu rõ hơn, thành thực hơn với chính mình, với nhân tình thế thái, non nước giang sơn. Nên không có gì ngạc nhiên khi có lẽ ông là thi  nhân có nhiều thơ nhất so với các nhà thơ hải ngoại cùng thời với 201 bài thơ và một trường khúc duy nhất về thơ trong giai đoạn này. Càng không có gì ngạc nhiên khi ở đó  có những bài thơ tình hay nhất, những bài thơ nghẹn ngào về quê hương đất nước.

Vẫn tan chảy với tình yêu, Du Tử Lê đã có những bài thơ mãi còn thổn thức lòng người. Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời, Thấy trăm năm cũng tựa một đôi giờ, Ai nhớ ngàn năm một ngón tay không chỉ là niềm mơ ước của những người đang yêu, mà đã trở thành chỉ dấu riêng có ở thơ tình Du Tử Lê. Đó là khát vọng muôn thuở của con người “Mai kia sống với vầng trăng ấy/người có còn thương một bóng cây/Góc phố còn treo đôi mắt bão/Ai nhớ ngàn năm một ngón tay? (Ai nhớ ngàn năm một ngón tay).

Chiêm nghiệm cuộc đời giúp ông trở nên thấu hiểu, bao dung sâu sắc hơn trong tình yêu. Phác họa (95/2) là một trong những bài thơ như thế. “em hãy cảm động với nhan sắc (dù cho đẹp hay xấu xí) của mình/không nhất thiết phải có anh để khóc”/“em hãy rớt xuống lòng mình/không nhất thiết phải có anh /để ngã”.

Đặc biệt, Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, Du Tử Lê không chỉ xưng tụng tình yêu “ở chỗ nhân gian không thể hiểu/ tôi thấy em từ trong hư không/cám ơn trời đất đưa em tới/để rụng cùng tôi lá tật nguyền” (Lỡ mai xa mất tay bồ tát); mà còn  bình thản nói về sự vô thường của tình yêu.

“ừ thôi năm tháng rồi xa lắc/ta cũng rồi trong nấm mộ sâu/chiều chưa đi khuất, người sao khuất?/em hiểu vì đâu chim gọi nhau”(Bài nhân gian thứ 3)

nếu hiểu rồi là cát bụi/kinh nào uyên áo hơn vô ngôn/sơn tự là tôi em hãy trú/có cũng xong. mà không cũng xong.” (Bài nhân gian thứ 5)

“bài thơ nhỏ gói nỗi sầu vô hạn/đường chim bay, nghìn dặm có ai tìm?/em không thể thì thôi đừng nắng, gió/củi than riêng, tôi đốt một mình” (Bài nhân gian tháng 8).

Ông còn cho thấy một góc nhìn về di chứng chiến tranh vẫn ẩn khuất sau nhiều chục năm chinh chiến.“từng đêm tôi gọi bóng tôi ơi/mai kia nấm đất đùn thân xác/có hận thù nhau? cũng vậy thôi” (Bài nhân gian 5).

Nhưng dù thế nào ông vẫn trao niềm tin yêu tới cõi người “thân giả tạm nhưng hồn không giả tạm/em nên tin tình chưa bụi bao giờ” (Mất hay còn chưa hẳn khác nhau đâu).                                                                

Khăng khăng tình yêu là lẽ sống, thơ hải ngoại Du Tử Lê ngày càng thấm đẫm nỗi đau lìa cố quốc, một lòng hướng tới giang san. Nỗi lòng này  khiến ông Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi (4/1991):

“ba mươi năm lẻ ai ngờ được/tao với bay, giờ gặp tại đây/chiến tranh đã dứt nhưng thương tích/vẫn ở cùng tao, ở với bay”/ “nhìn nhau chợt thấy ra sông núi/có chút gì nghe rất thốn đau/hẹn bay về chết trong tay mẹ/Tổ quốc nghìn năm bỏ được sao?”

Tâm tưởng đó kết đọng lại trong Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển (12/1977) và Trường khúc: Mẹ về biển đông (1989).

Khó có thể ngờ rằng, một sĩ quan - một phóng viên chiến trường của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà lại có một bài thơ để đời đắng lòng như “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển” ngay sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ hơn hai năm.

“Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/đời lưu vong không cả một ngôi mồ/Vùi đất lạ thịt xương e khó rã/Hồn không đi sao trở lại quê nhà”/“Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/Nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi/Bên kia biển là quê hương tôi đó/Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì”.

Ông căn dặn người đưa tiễn hãy hát quốc ca, nhưng sực nhớ ra rằng “ôi lâu quá không còn ai hát nữa/ (bài hát giờ cũng như một hồn ma)”. Nên ông đành nương tựa nỗi đinh ninh “Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết, đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn”. 

 Chắc hẳn tâm trí day dứt này khôn nguôi trong ông, nên 27 năm sau, một tuần sau ngày người mẹ khốn khó qua đời, ông đã có một trường ca nổi danh bộc lộ trọn vẹn tâm tưởng của ông với lẽ đời - Trường khúc: Mẹ về biển đông.

Cái chết của người mẹ đã cho ông có cơ hội nhìn thấu cuộc đời bà gắn liền với thăng trầm ngót trăm năm thế sự dân tộc. Bà mất đứa con trai đầu tiên trong cuộc chiến Việt – Pháp ngay trên thửa ruộng quê nhà ven sông Đáy. Góa chồng quá sớm, bà buộc phải theo đàn con di cư vào Nam chờ ngày tuyển cử sau Hiệp định Giơnevơ. Nhưng thay vì được trở về Phủ Lý bốc mộ chồng con, bà phải ở lại Sài Gòn đằng đẵng nhiều chục năm kể cả sau ngày thống nhất đất nước. Cho đến khi trí nhớ đã lòa, bà thực sự phải tha hương sang Hoa Kỳ nương tựa vào con cháu.

Du Tử Lê hiểu mẹ sống ở ngôi nhà đường Ranchero Way, nhưng tâm trí bà vẫn ở quê nhà. Những đêm khuya khoắt tỉnh dậy bà chỉ băn khoăn liệu cháu con có quên điều cửa giả, trộm lẻn vào lấy gạo, lấy cơm như thủa xa xưa. Gia tài của bà là những ngôi mộ.

Ngày bà nhắm mắt xuôi tay, ông nhận ra 85 năm cuộc người mẹ tội tình phải nhẫn nhục gánh chịu mọi tang thương của gia đình, của cuộc chiến. Những câu thơ đứt từng khúc ruột.

 “Mẹ một thuở thương đàn con khuất, lấp/nên hôm nay mất dấu quay về/trong thân xác đã khô, ròn máu đỏ/thịt da kia đành cũng bụi mù/những ngôi mộ ở bên ngoài đất nước/ngàn năm sau hai tiếng Việt Nam/không ai gọi, không ai còn nhắc nữa/dúm xương xưa tanh lợm, thiếu nguồn?”.

Thân thể bà như nỗi tang thương một dải non sông cả hai cuộc chiến.

“cái thân thể có tới tám mươi lăm năm ở cùng đất nước/tám mươi lăm năm làm người Việt Nam chiu chắt/ tám mươi lăm bất biến một mầu da/tám mươi lăm năm một xác thân/nếu cắt chia thành từng phần rất nhỏ/thì mỗi phần sẽ là một cảnh tượng đất nước thân yêu/từ Nam ra Bắc/cảnh tượng nào cũng ắp đầy xác chết/cảnh tượng nào cũng vẫn một tên chung!”

Như bản thân từng khắc khoải “có đất nước, cớ sao còn luân lạc?/cuối chân trời, ai khóc nỗi vong thân”, nên ông thấu rõ nỗi đau “tôi đã đi quá xa chỗ mẹ/và, ngày mai không biết có ai tìm?/ai sẽ hỏi: - Nghĩa trang này rất lạnh!/Ai nằm kia? Con cái ở đâu?”

Du Tử Lê chỉ còn biết khẩn cầu. Khẩn cầu mãi.

(Biển Đông tiễn mẹ tôi đi/liệu có đón bà về, cửa cũ?/cửa nghìn năm xanh một luỹ tre)/tôi nghĩ/không một bà mẹ Việt Nam nào muốn chết ngoài đất nước”

“Khung cửa vỡ. Ngó xuống đường trăn trở/biển Đông xin mở, đón: Mẹ tôi về!”.

Trong sự mất mát đớn đau ấy, Du Tử Lê đã kịp nhận ra ơn huệ cuối cùng từ mẹ “Cái chết của mẹ tôi/ tát cạn mọi hận thù trong tôi/ có thấy mười hai năm qua, dường như chỉ mỗi tôi không phải/mỗi riêng tôi giết chết mọi người”.

Nhưng có lẽ hơn thế, cái chết của bà khiến ông bừng tỉnh về những nỗi thẳm sâu vốn có trong lòng về cội nguồn dân tộc, về sông núi anh linh. Nên những câu thơ này không chỉ động lòng những người ra đi vì ý thức hệ, mà còn lay động tâm tư người Việt thiện lương từng vốn ngàn đời bị ngoại bang thống trị. Non sông thống nhất hôm nay là một điều may mắn đối với giống nòi, nhưng nó đã phải trả một cái giá khủng khiếp ở cả hai đầu cuộc chiến.

Thế nên không có gì lạ khi ông nói về thơ:

tôi trở lại con đường khuya bóng lá/bàn tay thơ ai vẫy gọi muôn đời/em nên hiểu cuối cùng tôi đã chết/và cuối cùng sông núi để tang tôi.” (Bài T.8)

***

Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê mỗi người một vẻ, kể cả nỗi cô đơn và lòng kiêu hãnh, nhưng cả ba đều “nhỏ máu trong thơ”. Để lại thơ cho đời. Là bản sao đẹp nhất của giới thi nhân, thơ đưa đưa thi nhân vượt qua thể chế để sống cùng nhân thế. Song trên hết, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê đều là con dân giống nòi Việt, đưa thơ của mình làm một bộ phận của văn chương Việt. Nỗi đau của cả ba người thơ là một phần nỗi đau của dân tộc trong cuộc chiến bất đắc dĩ có ngoại bang Hoa Kỳ. Dòng lệ bi tráng đó một lần nữa khắc sâu vào lòng dân tộc điều cốt tử nhất - chỉ sơn hà thống nhất trong hòa bình mới bảo đảm giống nòi thôi đổ máu.

Đây Văn Cao - thi nhân, nhạc sĩ rất đỗi cao sang của nền văn học nước nhà, đã gọi phút giây thiêng ấy là mùa xuân mơ ước đầu tiên của người Việt. Âm hưởng trong trẻo mượt mà, lời ca nồng nàn thánh thiện dung dị đang mãi vang trong lòng người Việt thương giống nòi, yêu Tổ quốc hình chữ S.

Hà Nội - Xuân 2025                               

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy