Thứ ba, ngày 24 tháng 06 năm 2025
15:05 (GMT +7)

Cá chép cho quân phát xít

Về tác giả: Ota Pavel (1930 - 1973) là một nhà văn, nhà báo và phóng viên thể thao người Séc, sinh ra trong gia đình gốc nông dân Do Thái. Sau Thế chiến II, cha và các anh của ông đều sống sót qua trại tập trung, từ đó Pavel bắt đầu viết các mẩu tin thể thao. Ông được cử tới Olympics Innsbruck 1964 và mắc chứng rối loạn lưỡng cực, thứ sẽ đeo bám ông trong suốt phần đời còn lại. Ông chủ yếu là tác giả của các tiểu thuyết tự truyện và tiểu sử. Hồi kí, truyện ngắn và các bài viết thể thao của ông, bao gồm “Golden Eels” và “How I Came to Know Fish” đều được ca ngợi khi xuất bản - ngay cả khi ông phải nằm viện 16 lần. Pavel mất ở Prague.

Cá chép cho quân phát xít
Cá chép cho quân phát xít

Hồi mới khởi nghiệp, người ta tịch thu ao của bố ở Bustehrad.

“Người Do Thái thì nuôi cá chép kiểu gì?” thị trưởng hỏi.

Bố yêu cái ao vùng hạ Bustehrad từ lâu lắm rồi, như kiểu đàn ông yêu một nàng con gái ấy (thỉnh thoảng anh ta lại cũng yêu mấy cô nữa!), dù cho nó chẳng khoe mẽ như bao nhiêu cái ao ở phía nam Bohemia. Chẳng có con suối nào chảy ra từ đó, không có lau sậy lắc lay trong gió nhẹ và không có con chim hải âu nào kêu quang quác hết, nhưng nó đủ tốt để làm một cái ao nằm giữa thị trấn, một bên có một cái nhà máy bia, rừng dương phía bên kia, và nhà cửa thì nằm rải rác đó đây.

Cá chép cho quân phát xít

Ngày còn bé bố đã ngồi trong chậu giặt ra giữa ao rồi; ông nội cũng từng cưỡi một cái chậu giặt ở đó, rồi cả cụ và kỵ nữa. Bố gắn bó với cái ao là do di truyền. Mà nó cũng có ích nữa, cá chép ở đó ngon tuyệt.

Chúng không làm bùn hôi, và bố thì có thể bán chúng kiếm thêm ít tiền ngoài thu nhập có được nhờ bán tủ lạnh và máy hút bụi cho cái công ty nổi tiếng Electrolux đó. Trước chiến tranh, bố thường đi bộ quanh ao cho cá ăn bánh mì bỏ trong túi giấy như cho gà ăn.

“Đây nhé. Đây nữa này”.

Chúng thường bơi về phía ông, mồm há hốc đớp lấy bánh mì và biến mất dạng! Chúng sẽ phô diễn những cú xoay người uyển chuyển dưới nước. Bố cũng thường tăng thêm gia vị cho đồ ăn của chúng bằng cách thêm bọt bia vào. Chúng đã lớn bằng cái bánh mận rồi! Không có gì ngăn chúng lại được.

Lúc quân Đức tới, chúng tịch thu lũ cá chép như nhiều thứ khác. Nhưng cá chép là thứ duy nhất chúng có thể lấy đi khỏi chúng tôi. Từ trước chiến tranh khá lâu bố đã nói một cách khôn ngoan rằng toàn bộ tiền bạc trong nhà đều dành cho ăn uống và tiêu xài hưởng thụ. Có lần mẹ trách móc bố, ý là ông chính là người tiêu nhiều nhất. Nhưng nói vậy cũng không hẳn đúng. Lúc còn làm ra nhiều tiền thì ông đều cho chúng tôi mọi thứ có thể, như mấy con gà lôi hoành tráng có cái đuôi dài tuyệt đẹp treo trong chạn thức ăn bên cạnh mớ thịt xông khói mà chúng tôi cứ thích lạng miếng để ăn.

Tuy nhiên cũng có những ngày có mấy tên sĩ quan côn đồ tới lấy đi đồ đạc trong nhà trong khi chúng tôi đứng trong tư thế nghiêm. Một lần khác ba thằng nhóc chúng tôi cũng đứng nghiêm khi quốc ca của chúng tôi “Tổ quốc ta ở đâu”, từ trong đài tuôn ra. Một đêm nọ sau khi chúng tôi đã về phòng thì quốc ca vang lên. Chúng tôi nhảy ra khỏi giường và cứ mặc đồ ngủ mà đứng, bố tự hào khoe mấy đứa con trai yêu nước của mình cho khách khứa.

Bố yêu nước mình, có lẽ còn nhiều hơn mẹ vốn là người Cơ Đốc. Đối với bà có tổ quốc phần nào là lẽ tự nhiên, trong khi bố và tổ tiên của ông phải tìm kiếm hàng trăm năm trời mới tìm ra được một quê hương. Và vậy nên thay vì mua thực phẩm và nhu yếu phẩm bằng số tiền cuối cùng kiếm được trước chiến tranh, bố lại đi mua một bức tượng bán thân xinh đẹp của Séc. Chúng tôi chỉ có nhiêu đó khi quân Đức tràn vào. Sau khi gói ghém bức tượng và số đồ đạc còn lại, chúng tôi đi từ Prague tới Bustehrad để được gần đất tổ của bố và cái ao duy nhất của ông. Khi thị trưởng tuyên bố là họ cũng sẽ chiếm luôn nó thì vai bố không chùng xuống. Ông không khom lưng uốn gối bao giờ.

“Cứ làm đi”, ông nói, “nếu muốn hóc xương cá chép nhà ta”.

Tay thị trưởng tròn mắt nhìn, nhưng hắn vẫn im lặng. Hắn không muốn lương tâm cắn rứt vì bố.

Không lâu sau bố và các anh tôi đi làm ở hầm mỏ Kladno. Bố đi xe đạp, và cái cỗ máy cút kít đó có vẻ cứ ca lên bài ca kì lạ như vậy suốt đường đi. Người ta không tài nào hiểu được, chúng thực sự rất kì lạ. Chắc trong đó có nỗi nhục nhã và phẫn nộ của một người đàn ông. Chắc cái xe đạp đó cất lên điều đang xảy ra trong tâm trí bố. Hết cú này tới cú khác bắt đầu giáng lên người ông. Chúng tôi biết là ông vẫn tới thăm cái ao và lũ cá chép. Dù chúng tôi thiếu bánh mì nhưng ông vẫn lấy một ít trong khẩu phần của chúng tôi ra cho lũ cá, có lẽ vì mong rằng không ai bắt chúng khi còn chiến tranh và chúng sẽ sống để nhìn thấy hòa bình. Bố ra ao cả ngày lẫn đêm. Ông bị nó ám ảnh mất rồi.

Có lần ông kinh hoàng khi nhìn thấy bốn gã mặc quân phục xanh lá bảnh bao đứng dọc trên bờ chỗ cái đập giữa đám cây dương, tay cầm cần câu. Ông đi về phía bọn chúng, hồn vía bay lên mây lòng muốn hỏi chúng sao lại dám câu cá trong ao của mình. Tên lính ốm nhách đầu tiên mang giày đi ngựa quay sang và bố nhìn thấy hình hộp sọ(1) và khuôn mặt cười của tên lính SS.

“Mày muốn gì đấy tên Do Thái?” tên sĩ quan hỏi. “Mày muốn ăn cá chép à?”.

Bố im ru.

“Lại lấy đi!”, tên lính hộp sọ ra lệnh và vươn tay thọc vào một cái xô, hắn quăng một con cá chép xuống đám bùn giữa hắn và bố. Con cá bắt đầu chìm xuống vẻ ngáp ngáp, bốn tên hộp sọ đều phá lên cười. Rồi đột nhiên một tên dừng lại.

“Biến đi đồ Do Thái!” hắn hét lên.

Bố chậm rãi quay đi không chút sợ sệt và ngẩng cao đầu đi mất như bình thường. Ngay cả bọn Đức cũng chưa dạy được ông cách luồn cúi.

Tình hình làm ăn ở đâu cũng tồi tệ, nhưng ở Busterhrad thì có vẻ tệ hơn. Cuộc hủy diệt làng Lidice(2) làm cả thế giới choáng váng. Toàn bộ Bustehrad, bao gồm cả bố, mẹ và anh em tôi, đều nhìn thấy làng Lidice bị thiêu rụi. Chúng tôi nghe thấy làng Lidice gào thét phía bên kia đồi. Trước giờ tôi vẫn đi học cùng Prihoda, và rồi đột nhiên chỗ ngồi của cậu ấy ở trường hoàn toàn trống trải. Bọn tôi từng đá bóng ở Lidice, bố có bạn ở đó, còn bà mẹ nhỏ nhắn, tóc sáng màu của tôi thường trở về sau những lần lao động cưỡng bức trên cánh đồng ở Lidice trong nước mắt vì che khuất những nấm mồ là lớp cỏ dày mọc cao nhờ vào máu thịt của các nạn nhân. Chúng tôi chẳng thể nào quên được sự hủy diệt làng Lidice. Nó cứ ở lại mãi trong tâm trí tôi như một con rận cắn dưới da, con rận có một chữ thập ngoặc đen ngòm thay vì răng nanh và chân. Bố bàng hoàng sau vụ Lidice. Mắt ông chất chứa hàng trăm năm buồn đau chết tiệc đó, và ông thôi không đến ao nữa vì ông không còn tin rằng sẽ có ngày lũ cá sẽ lại là của mình.

Thế rồi lại thêm một chuyện khủng khiếp nữa giáng xuống. Các anh tôi phải đi tới trại tập trung. Thế là chúng tôi chỉ còn lại ba người, và khi nào có thể thì chúng tôi lại gửi cho họ 20 kí đồ đạc cùng với tem khẩu phần cho trại Terezin. Bố sẽ vét sạch từng đồng để mua đồ gửi đi, còn tôi sẽ sang chỗ mấy người nông dân ở Bustehrad và các làng lân cận để kiếm thực phẩm. Nhìn tôi khá là vô hại. Tôi mới có 12 tuổi, yếu ớt và mảnh dẻ. Chả ai để ý tới tôi hết. Có nhiều người tốt bụng tuyệt vời như thợ làm bánh Blaha và quán Burgrs, nhưng cũng có người khác nữa. Vào mùa đông tôi sẽ đi bộ từ làng này sang làng nọ trong cơn rét cóng, lưng vác một bao tải nhỏ và gõ mấy cái cổng lớn. Tới một nông trại nọ, tôi chờ trong sân hai tiếng đồng hồ thì mới có một bà mang cho một túi bột mì nhỏ tí tẹo. Chả bao giờ tôi mang được gì nhiều về, nhưng mẹ lúc nào cũng khen và vừa vuốt tóc tôi vừa nói, “Con quả là chàng thương nhân bé nhỏ”. Tôi sung sướng nhất mỗi lần xin được một điếu thuốc. Tôi sẽ mang nó về nhà, rồi bố ngồi đối diện mẹ và châm lửa. Vừa chuyền điếu thuốc qua lại họ vừa nói chuyện về cuộc sống sau chiến tranh. Ngay trước Giáng sinh thì bố bị gọi đi trại tập trung.

Lúc đó thì nhà tôi đã sa sút lắm rồi, và mẹ càm ràm là chẳng thể cho bố thứ gì để cầm theo được nữa. Hai ngày trước khi đi trình diện, bố đang xúc tuyết trước nhà thì một chiếc xe đỗ xịch lại và ba viên chức nhảy ra. Việc họ đến này không bất ngờ gì vì chúng tôi còn nợ ít thuế ở bên quận người Do Thái.

“Coi kìa, vi diệu thật!” một người nói. “Tên Do Thái đang làm việc!”.

“Trong khi các người trốn việc”, bố nói.

“Mày nghĩ bọn tao là ai?” người đó nói.

Bố nhìn qua bọn chúng một lượt và để ý thấy là một người trông rất giống người Do Thái. “Nhìn ông giống cả cộng đồng người Do Thái”, bố nói.

Một người trong đám cho rằng lời qua tiếng lại như vậy là quá đủ rồi. Hắn lôi ra một cái mề đay cho bố xem.

Geheime Staatspolizei. Bố nghĩ, vậy ra đó là quân Gestapo(3), và ông nói “À, xin chào Hoàng đế”, mấy tay Gestapo đó có vẻ thích ông, kẻ có hàng ria mép cất lời.

“Rõ ràng là mi không phải đồ ngu. Thế nên vào nhà chỉ bọn tao coi chỗ giấu mấy khẩu súng đó đi”.

Chúng khám xét căn nhà và ngạc nhiên khựng lại trong phòng khách. Trước mắt chúng, trong một căn nhà Do Thái lại có một cây Giáng sinh trang trí giấy thiếc. Tên có hàng ria mép thậm chí còn cười nhẹ với mẹ. Sau đó chúng leo lên tầng áp mái thì tìm thấy bức tượng bán thân của Séc đã được bọc lại nằm trong một góc. Tiếng cười đùa ngừng lại, và tên ria mép không cười với mẹ nữa. Chúng bắt bố mang bức tượng tới một ô cửa sổ và thả xuống khoảng sân bê tông bên dưới. Rồi ông bị bắt phải đập tan nát từng mảnh còn lại bằng rìu. Lúc chúng đi rồi, mẹ, người từng gặp cảnh này trước kia, nói là trên đời vẫn còn những người Đức đàng hoàng, nhưng bố chỉ nhổ nước miếng. Qua hôm sau chúng tôi nghe nói là những người Đức đàng hoàng đó đã giết hai gia đình Do Thái gần bên sau khi lục soát nhà họ.

Vì sáng hôm sau bố phải đi nên chúng tôi ăn mừng Giáng sinh sớm. Chúng tôi thắp nến trên cây thông, giấy thiếc sáng bừng bên như bạc, và căn phòng tỏa mùi hương của rừng. Có trời mới biết bố tìm ở đâu ra cho tôi một đôi giày cũ có lưỡi trượt, điều này giúp dung dưỡng giấc mơ của ông rằng ngày nào đó tôi sẽ trở thành một vận động viên khúc côn cầu nổi tiếng. Nhờ mấy thằng nhóc ở trường tôi đã xoay xở kiếm được cho bố hai gói thuốc lá để ông đi đường tới trại. Mẹ và bố cố hết sức để trông vui vẻ. Họ ngâm nga hát, hi vọng rằng tôi sẽ có những kí ức trìu mến về buổi tối hôm đó. Hẳn là họ phải cảm thấy khủng khiếp về cái buổi tối có thể là cuối cùng mình được ở bên nhau.

Giữa đêm ai đó lay tôi tỉnh dậy trong bóng tối.

“Dậy đi, dậy”. Bố đang lay tôi. Tôi không muốn dậy vì trong phòng lạnh tê tái. Răng tôi va lập cập vào nhau và tôi đang run lẩy bẩy, nhưng tôi gắng thay được đồ. Qua phòng bên cạnh mẹ giúp tôi mặc áo ấm và đội mũ vào. Có gì đó đã sẵn sàng rồi và tôi thì không biết đó là gì.

“Bố đang chờ con trong sân”, mẹ nói.

Tôi đi xuống lầu và bố đứng đó tay cầm một chiếc rìu và một nùi bao tải. Tôi thấy sợ lúc ông gật đầu với mình. Ông bắt đầu đi và tôi đi theo, lớp tuyết cứng vỡ lách tách dưới chân. Bố không nói gì hết mà cứ đi thẳng về phía cái ao nằm cách xa phía bên kia khoảnh cây dương, như thể trong một câu chuyện cổ tích, khắp nơi đều đông cứng và sáng lên dưới ánh trăng. Chỉ có sự tĩnh lặng, khắp nơi đều một sự tĩnh lặng như tờ. Tới gần nhà Hudecek thì bố bắt đầu gõ lên mặt băng và đi ra tới tận mặt hồ. Lớp băng dưới chiếc rìu của ông nghe như tiếng đàn nhà thờ.

“Lũ cá chép đang ngạt thở”, ông nói và quay sang tôi. “Không ai đục lỗ thở cho chúng hết”. Ông đứng dạng hai chân ra và đục xuống băng. Âm thanh đó vang dội suốt đêm còn tôi thì run cầm cập. “Mình sẽ làm ở đây”, ông nói. Ông đứng bổ xuống mặt băng. Vụn băng văng tung tóe lên khắp quần áo và mặt lúc ông cắt ra được một khối vuông và kéo ra khỏi nước. “Mình phải chờ thôi”, ông nói. “Chút nữa chúng sẽ bơi tới đây”.

Tôi nhìn như thôi miên xuống làn nước trong vắt mà mỗi rãnh đất và hòn sỏi dưới đáy đều hiện ra. Làn nước rung lên sủi bọt khí đầy sự sống, và cái ô vuông trên mặt băng đó trông như một cái giếng cứu sinh cho lũ cá chép. Bố hiểu điều đó, và bất thình lình một cái bóng sẫm màu hinh ô van bơi dưới chân chúng tôi. Nó quay lại. Một con cá chép. Mà con cá chép to ghê! Nó chìa cái mỏ tròn ra đớp lấy không khí lúc một con khác tới. Trông chúng lờ đờ như phê thuốc, không màng để tâm tới việc chúng tôi đang ở đó quan sát chúng. Chỉ mất vài giây là lũ cá đã lấp đầy cái lỗ mà vẫn còn nhiều con đang tới nữa. Thế là có điều gì đó vô danh từ nơi sâu thẳm trong người chiếm lấy tâm trí bố. Ông quỳ xuống mặt băng và xắn tay áo lên. Ông vuốt ve đầu và lưng chúng mà lẩm bẩm, “Cá chép yêu quý của ta. Cá nhỏ ơi”. Ông chơi đùa với chúng, và chúng thì tụ lại quanh tay ông như cha con, dưới ánh trăng chúng ánh lên màu vàng và bạc hoàng kim như những vị thánh. Không bao giờ tôi lại nhìn thấy lũ cá chép như vậy nữa. Bố lật người chúng qua lại, nâng chúng lên rồi để chúng bơi đi và ngâm nga gì đó.

Cuối cùng ông cũng đứng dậy, vầng trăng soi sáng gương mặt ông đang mang lấy vẻ cực kì thỏa mãn. Ông lấy một cái vợt từ trong một cái bao. Cứ cầm cái bao mở miệng như thế ông bước tới cái lỗ và múc con cá chép đầu tiên lên. Tới lúc đó tôi mới nhận ra ông muốn làm gì, và thế là tôi kinh hoảng.

“Bố ơi bỏ đi!” tôi vừa nói vừa kéo tay áo ông. “Nếu bị bắt thì họ giết mình mất”.

Gương mặt ông vô hồn lúc nhìn tôi, và ngày nay tôi đã biết được rằng ông chả quan tâm liệu mình có bị bắt và đánh đập tới chết hay không. Ông chẳng thể nào ra đi mà để lũ cá chép của mình lại cho bọn Đức được. Ông không vuốt ve chúng nữa. Chúng tôi bỏ chúng vào bao tải và đem về nhà nơi mẹ chia chúng ra bỏ vào đồ đựng. Nhà chúng tôi nhanh chóng ngập trong nước. Cá chép bơi trong xô, bồn tắm, trong thùng gỗ, trong mấy cái máng ngựa cũ trong chuồng. Sáng ra khi vầng trăng đã ngả bóng, trời thậm chí còn lạnh hơn. Chúng tôi tê cứng tận xương lúc lôi được mấy cái bao ướt cuối cùng về tới nhà. Mẹ cạo lớp băng đóng trên người chúng tôi ra và chúng tôi cùng nghĩ về cái hồ lúc này đã trống rỗng. Lũ cá chép đã về nhà. Bố đã trộm cá của chính mình.

Sáng ra chúng tôi đi tiễn bố bắt xe buýt tới Pra-ha. Ông mang theo một cái vali nhỏ, và lần đầu tiên trong đời vai ông chùng xuống. Nhưng với tôi ông đã trở nên vĩ đại trong đêm đó.

Từ hôm đó ở nhà, mẹ con tôi bắt đầu đổi cá lấy đồ ăn với các nhà buôn và nông dân. Giáng sinh năm đó lũ cá chép đã mở ra cánh cửa đến với hầu hết mọi pháo đài bảo mật nhất. Khoảnh khắc tôi giơ ra một con cá béo ú trong bao tải thì các bà nội trợ đều vui mừng. Căn phòng lạnh lẽo của tôi chất đầy mỡ lợn, thịt xông khói, bột mì, đường, bánh mì trắng, hàng mớ hộp thuốc lá. Nhiều lần tôi được người ta mời tới nhà uống cà phê trắng và ăn bánh mì Giáng sinh thỏa thích. Tôi không còn phải chờ đợi chán chê trước cổng nhà ai nữa. Tôi được chào đón như vua chúa nhờ lũ cá chép đã mở ra một con đường vào thế giới này. Đó là mùa Giáng sinh sung túc nhất của tôi.

Qua năm sau người ta đem lưới tới đánh cá mạn dưới ao Bustehrad. Đồng phục quân Wehrmacht(4) lẫn vào đám ngư dân. Lũ cá chép sắp bị quân đội Đức tịch thu rồi. Tôi đứng lẫn vào trong đám lũ con trai trên đập nước và chờ xem bao lâu nữa việc này sẽ kết thúc.

Đầu tiên có một buổi lễ lớn. Một ban kèn đồng chơi nhạc trên đập nước gần đó, mọi thứ trông thật hứa hẹn. Nhưng trong ao không có gì hết, và không ai biết được vì sao. Chỉ có tôi biết được rằng ban nhạc đó đang chơi để tỏ lòng tôn kính bố tôi, người có Tấm khiên David trên áo khoác đã nẫng tay trên của bọn Đức.

-------------

(1) Death's Head là biểu tượng của Đội Cận vệ SS của Hitler.

(2) Ngôi làng ở Cộng hòa Séc bị quân Đức san phẳng vào đêm 10/2/1942.

(3) Lực lượng Cảnh sát Bí mật của tổ chức SS do Đức Quốc xã lập ra

(4) Tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm 1945.

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Bức tường

Văn học nước ngoài 2 tuần trước

Tội ác và những bài thơ

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Phòng thí nghiệm trống rỗng

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Bóng tối nhỏ nhoi

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Buôn bán là buôn bán

Văn học nước ngoài 2 tháng trước

Cô gái hai mặt

Văn học nước ngoài 3 tháng trước

Cừu vào lò mổ

Văn học nước ngoài 3 tháng trước