Thứ tư, ngày 18 tháng 06 năm 2025
18:33 (GMT +7)

Hai con đường

Trường đầy mùi phân trâu. Đó là ấn tượng đầu tiên của Thanh khi đến Xênh Mùa Ca dạy học. Dân ở nơi này phần lớn làm ruộng, trồng rừng nên nuôi nhiều trâu. Trâu cày bừa, trâu kéo gỗ. Quả đồi sau trường bốn mùa rải rác phân trâu và có tiếng mõ trâu lốc cốc. Rặng xoan ở ngay đầu sân trường, gần lớp học là nơi dùng để buộc trâu. Chỗ này ngập ngụa phân và lõng bõng nước đái trâu, phần bị ứ lại trong đám cỏ xanh tốt, phần trôi theo sườn đất dốc xuống khe suối nhỏ dưới chân đồi. Trẻ con trong vùng, nhiều đứa vẫn nô đùa và tắm ở suối này, về ghẻ khắp mình. Càng mưa, nước lẫn phân càng trôi nhiều, phân trong cỏ càng rữa ra, nhìn phát sợ. Mưa sùi sụt có khi cả tuần, cả tháng. Nắng lên, quanh trường đậm gắt, ứ đặc một mùi nồng nã, khai khẳn. Giáo viên lên lớp, cảm giác phân trâu ám vào đầu tóc, sách vở. Học sinh hít thở bầu khí quyển ấy cũng lắng cặn phân trâu trong trí tưởng, tâm hồn. Có hôm đến bữa, thấy ngang ngang trong dạ, như đã hít no mùi phân trâu. Có hôm nghĩ đến bãi phân vữa ra nhoe nhoét dưới mưa dầm, không còn muốn lùa cơm vào miệng. Đời mình rồi chết chìm, chết ngập ở đây mãi sao? Tâm trạng sống mòn cứ âm ỉ gặm nhấm, ăn vào suy nghĩ hàng ngày, đục ruỗng giấc ngủ. Đêm, Thanh mơ thấy mình trồi ngụp trong bể chứa phân lềnh bềnh, phân ứ đầy lỗ mũi, lỗ tai. Cả tươi loãng vàng vàng, xanh xanh. Cả đen sì đóng cục, đóng vảy. Càng hắt hơi, ho sặc, nước phân càng ộc vào mồm.

Hai con đường
Minh họa:  Dương Văn Chung

Phải bỏ Xênh Mùa Ca. Phải tìm đường ra thành phố. Ý nghĩ ấy càng quyết liệt khi phải chường mặt ra chứng kiến những cái nhỏ nhen, tầm thường, nông cạn hàng ngày. Đánh giá chuyên môn tháng vừa rồi, Thanh bị hất cổ xuống bùn. "Giáo án của đồng chí không có dòng kẻ bằng mực đỏ phân đôi hai cột hoạt động của thầy, hoạt động của trò" - hiệu trưởng Tân nói. Lại còn thiếu những chữ "ổn định tổ chức lớp, kiểm tra bài cũ" là phần bắt buộc phải ghi ở đầu bài soạn. "Những cái đó, tôi không viết ra nhưng tiết dạy nào chả phải làm" - Thanh bác lại. Tân lạnh lùng lia bút đánh xoẹt. Huyền cười nhếch mép. Bài soạn của Thanh nhồi nhét đen kịt kiến thức, xếp loại trung bình. Bài soạn của cô ta chỉ lưa thưa những gạch đầu dòng nhưng đầy đủ đề mục, gạch chân, mực đỏ, mực xanh, nghiễm nhiên xơi loại tốt. Đọc lắm biết nhiều mà không hợp cánh, hợp gu bị coi bằng rác. Thời buổi ăn nhau ở hai chữ được lòng.

Thanh bỏ lên đồi, nằm dài trong cỏ cả chiều. Lãng quên ngôi trường nghẽn đặc vi trùng, thả hồn vào thiên nhiên. Ở lùm cỏ này, anh đã hôn Dông lần đầu, và sau đó còn rất nhiều lần. Môi Dông hoi hoi, ngầy ngậy, lại ngòn ngọt, bùi bùi. Thích lắm. Thanh ngụp mặt vào đó mà hôn. Tảng môi dầy, se se, nứt nẻ và bong vảy vì giá rét. Chụt choạt, ngấu nghiến đến lúc ướt rượt như thớ cà chua đỏ mọng. Cái vị bùi béo tiết ra từ những kẽ nứt trên môi còn đậm đà hơn vị quả đài hái. Mỗi lần gặp là hôn đến mỏi nhừ miệng, hôn đến no. Hôn cho bõ những lúc mồm miệng nhạt tanh, thèm khát. Má Dông hưng hửng như táo chín, thô ráp và có tàn nhang, nhưng Thanh thích hít hà mùi sương, mùi hoa dại và lá cây ngấm trong những lỗ chân lông trên má. Dông mãnh liệt lắm. Ai bảo con gái Mèo không biết hôn. Lại là học trò hôn thầy, lại chỉ qua một lần gặp thầy trên đồi mận hoa tràn như tuyết, một lần vấp ngã vì dùng dằng vướng gió trong lúc thồ củi dưới nắng chiều. Buồn cười thật. Mỗi lần buông nhau đi về, chân bước châng lâng như không bén đất trên đồi, Thanh lại liếm kiệt vị ngậy còn sót lại ở môi, như gấu mải miết liếm chân mà sống qua mùa đông tháng giá. Trong đầu lúc nào cũng choán đầy một tảng môi ngờm ngợp dâng như núi, lúc khô lúc ướt, ấm sực, đỏ hồng.

Lần đầu trong đời trai trong sạch biết đến mùi vị con gái, Thanh ngất ngây như say rượu, nghiện hôn như nghiện thuốc, nghiện trà. Lúc tỉnh ra, thấy hoảng hốt. Niềm vui, ý nghĩa cuộc đời chỉ vụn vặt tầm thường như thế này sao? Ta tự vùi chôn đời mình trong vòm môi dầy dầy khô nẻ ấy sao? Hoài bão, lí tưởng ngày nào đâu cả rồi? Không, quyết phải cai nghiện bằng được. Thanh khổ sở tìm lại con người ý chí của mình. Một ngày không hôn thì bứt rứt chân tay, lưng mỏi, miệng đắng, đầu óc rỗng rễnh không còn thiết làm gì, nhưng Thanh cai dần bằng việc chỉ gặp cô học trò ba lần, rồi một lần mỗi tuần, rồi dứt hẳn. Không dám lên đồi vì sợ nhớ. Lúc nào lên cơn thèm thì ngắt ngọn đắng cảy, một loại rau rừng cho vào mồm nhấm nhấm. Thế rồi cũng quên dần. Hoa mận vẫn trắng như tuyết đọng trên triền cao Xênh Mùa Ca, trời vẫn chợn rợn xanh trên khu đồi thừa thãi gió, nhưng hai người đã trở thành xa xôi...

Ý nghĩ sống cho ra sống càng nung nấu từ ngày anh Hoàng nhà báo xuất hiện. Anh lên Xênh Mùa Ca làm phim tài liệu về ngành giáo dục, ở với Thanh tại trường một đêm. Đêm ấy, hai anh em ngồi với nhau dưới trăng ở lưng đồi, trên đám cỏ từng nát nhàu bởi da thịt của Thanh và Dông. Anh nhìn xuống cỏ, hít hít và nói: "Hình như chỗ này có mùi con gái Mèo". Rồi nói: "Chú mày sướng như gã thổ ty, ngồi trên đống của mà bỏ phí". Thanh không hiểu. Anh phì khói thuốc lá vào mặt Thanh: "Địa lí nhân văn, cảnh quan phong tục ngổn ngang đầy ắp thế này. Một cành hoa mận như cái chổi lông trắng muốt kia, hay một cái nếp váy gói cả lịch sử của người Mèo cũng viết ra được vài pho sách. Anh thấy mày cũng chí thú đấy. Đừng chịu sống hèn. Phải nghĩ mà làm một cái gì đi, em ạ".

Lại suốt ngày quanh quẩn giữa mấy bức tường phơi bày những chữ, những hình tục tĩu bằng than, bằng gạch non. Lại hít cho căng đầy lá phổi thứ khí nặng mùi phân và nước đái trâu, nước đái người tia vào tường, đọng thành vũng khai nồng phía giáp đồi. Trong căn phòng nhà tập thể xiêu vẹo bằng tre nứa, Thanh đằm mình vào đống sách lôi lên từ đáy chiếc hòm cũ mang theo từ thời sinh viên. Sách cũng cũ, vài cuốn nát nhàu, mủn rách. Cả văn học, triết học, văn hoá, lịch sử. Mỗi lần ra thành phố, lại đến mượn anh Hoàng, hoặc dùng tiền ki cóp được mua thêm một đôi cuốn mang về. Và một đống báo các loại, cả cũ cả mới. Phải đọc. Phải đẩy tầm mắt vượt ra ngoài mấy quả đồi, rặng núi hiu hắt này. Không thể chết chìm trong tăm tối. Thấy Thanh đêm nào cũng thức khuya đọc sách, mặt mũi nhăn nhúm suy tư, Huyền thử lật xem cái bìa, rồi dửng dưng đi về phòng mình. Cô nàng không hiểu con người ta đọc sách để làm gì. Thờ ơ với chữ nghĩa, cô giáo dạy văn này sau hai năm ra trường vẫn tưởng Marx, Engels, Lenin đều là "người Liên Xô", hơn thế, Lenin cũng mang họ Lê như người Việt. Lên lớp, cô nàng choang choang nói trước học sinh rằng Tô Hoài họ Tô, còn tác giả Rừng xà nu không phải Nguyên Ngọc như em nào nói đâu, mà là nhà văn Nguyễn Trung Thành đó. Người nhỏ nhưng giọng Huyền vang như chuông khánh, át tiếng mõ trâu, vọng xa mãi tận cuối đồi...

Nhìn dáng điệu vừa khô vừa lẳng của Huyền, Thanh thầm khinh bỉ. Lâu rồi cô ta không còn đong đưa liếc mắt với Thanh như ngày anh mới về nhận công tác. Ngày ấy thấy Thanh đẹp trai, Huyền suốt ngày cười nói làm thân. Chính Huyền bảo Tân mời Thanh góp gạo thổi cơm chung, vì chỉ có ba người ăn ở tại trường. Vào bữa, Huyền cố ý ngồi cạnh Thanh, xăm xắn gắp cho Thanh con tép, quả cà ngon nhất. Hiệu trưởng Tân thoáng sầm mặt, lặng lẽ ăn. Những tháng sau, kết quả đánh giá chuyên môn của Huyền tự dưng tụt hẳn. Cuối năm, lại vóng lên bất ngờ. Một chiều Thanh khoác túi ra phố huyện bắt xe về nhà, nhớ ra quên một thứ, quay trở lại trường. Vừa mở cửa vào phòng, anh nhìn thấy Tân bế Huyền ra từ buồng tắm ở cuối vườn rau cải. Nắng mùa đông vàng nhạt, loang trên tấm thân trắng trẻo của Huyền đang rỏ nước xuống vạt hoa cải tươi vàng. Huyền cười khanh khách, giãy giãy làm duyên, trên mình chỉ hớ hênh một manh quần lót trăng trắng. Thanh nóng bừng người, nhòm sang phòng Huyền qua lỗ rách trên tờ báo che vách. Anh thấy Tân đặt Huyền đứng giữa phòng rồi quỳ xuống, vuốt ve cặp chân khô khô hơi gầy của Huyền, bàn tay lướt từ cổ chân lên đến mép quần lót. Rồi xốc cô nàng lên giường. Những động tác của tay đàn ông xa vợ thật thuần thục, cáo già. Chúng thì thầm, nhả nhớt với nhau.

- Bây giờ em mới biết nó là người không bình thường anh ạ.

- Bây giờ mới biết à... Tưởng thích nó mãi.

- Em mà thèm thích nó! Cái loại thần kinh, người thật không yêu, đi yêu cái con nào trong sách trong truyện.

- Anh thấy tối nào nó cũng mải miết đọc cái gì ấy.

- Ôi giời, càng lắm chữ càng hâm, rồi thì xúc cứt trâu mà ăn. Mấy năm nữa thì ế vợ.

- Ừ, bằng xương bằng thịt thế này mà không biết thích, ngu nhỉ.

- Nó phần anh đấy.

- Thật á, cám ơn nó. Em rên anh nghe đi...

- Ứ, không biết rên.

- Em yêu, sao không nhắm mắt...

- Không biết nhắm mắt.

- Bướng thế, hồ sơ chuyên môn tháng này cắt loại A nhé. Trông kìa, con thạch sùng nó đang thèm...

Thanh len lén ra khỏi cửa. Ngọn lửa quyết tâm lại bùng lên dữ dội. Vàng không thể ở lẫn với cát. Chim công không chung chạ với cú mèo. Phải rời khỏi Xênh Mùa Ca. Con đường anh Hoàng phác ra thấp thoáng phía trước. Mình sẽ đi, nhưng còn Thủy?...

***

Thanh gặp Thủy vào một buổi chiều mưa ở xã Pờ Sì Ngài. Cô gái dắt chiếc xe máy bê bết bùn đất, nước rỏ ròng ròng. Quần cô cũng bết bùn, và mu bàn tay lấm bùn rướm máu. "Tại thằng bé người Dao" - cô giải thích. "Em đang xuống dốc, gặp nó đi trên đường. Em ngoặt sang trái, nó cũng tạt trái. Em ngoặt phải, nó lại chạy sang phải làm em cuống quá bay cả người cả xe xuống ruộng. Em phải nhờ một người đi đường giúp lôi xe lên, mãi mới được. Thằng bé hốt quá, mắt nó xanh như mắt mèo anh ạ".

Thanh dắt xe hộ cô gái. Chiếc xe máy đời cũ, bị cong vênh cần số. Đường cua liên tiếp, be bét bùn đất đỏ lòm. Trên trời nhoè nhoẹt mây xám, mây đen. Mỗi đoạn khúc khuỷu, chênh vênh, hai người rạp mình đẩy xe lên dốc. Cô gái nhoẻn cười, mặt tươi rói hứng những sợi mưa rất mảnh bay xiên.

- Em là Thủy, làm ở trạm bảo vệ thực vật Xênh Mùa Ca - Cô tự giới thiệu.

- Cán bộ ở trạm như em cũng phải đi các xã à?

- Có chứ anh. Chúng em thường xuyên phải đi xem các giống ngô, lúa, rau, quả được dân họ trồng thế nào, vất vả lắm. Nhiều hôm mưa dầm, đường lầy quá, phải gửi xe cuốc bộ anh ạ.

"Một cô gái tốt nghiệp đại học mà phải lặn lội vùng cao thế này, cũng tội" - Thanh nghĩ. Lóc cóc hết năm cây số, đến gần trung tâm huyện mới gặp hiệu sửa xe máy. Cả hai mệt lử, lấm láp như chuột lội bùn. Thanh thở hắt ra, nhìn cô gái. Gương mặt không thật xinh nhưng có nét gì sắc sảo, đã gặp là không quên. Thân hình mềm gọn như một con chồn. Nước da màu mật ong. Đôi môi màu mận chín. Ngực như quả còn phấn, vừa đủ nắng mà ngọt căng. Một thoáng rung động nhẹ nhàng như sương mù dâng lên. Lạ thật, có những con người vừa gặp đã thấy gần gụi, yêu mến lắm, cứ như tiền định sinh ra là để cho mình. Lúc chia tay còn duyên dáng nghiêng mặt, mỉm cười. "Em cảm ơn anh nhiều. Mời anh hôm nào lên trạm chúng em chơi. Chỗ em ở tuềnh toàng lắm, anh đừng cười nhé"...

Thanh đã đến trạm của Thủy nhiều lần. Anh cũng đã hôn cô nhiều lần. Môi Thủy ngọt lắm, ngọt như mật, mời gọi và ám ảnh hơn môi Dông. Chất ngọt kì lạ này cứ vơi lại đầy, hết lại có. Nhiều lúc Thanh điên cuồng đè Thủy xuống giường, hôn đến kiệt cùng, hôn đến nhạt môi Thủy. Tưởng đã cạn khô nhưng chỉ lát sau ghé miệng vào lại thấy ngây ngây như lên cơn sốt trước một làn môi nóng bừng ngọt lịm. Thứ mật trời cho ấy làm Thanh u mê, mụ mẫm. Da Thủy cũng ngọt như cùi nhãn, không có mùi hoa dại như da Dông. Từ ngày gặp Thủy, Thanh nhận ra rằng da trắng không thể coi là đẹp, nó bềnh bệch, nhạt nhẽo, vô duyên. Chỉ nước da nâu mới ngấm được vào trí tưởng người ta, không trơn tuột phẳng phiu mà như keo đọng lại. 

Thủy đã đưa anh về nhà. Nhà Thủy ở một huyện xa, đường vào phải qua mấy quả gò, mấy cái ao, bên đường lao xao thứ cây gì đỏ rực. Nhà Thủy khuất sau vườn chuối, nghèo xơ xác. Bố mẹ Thủy là nông dân, già lão, tóc bạc hoa lau. Bà cụ ôm lấy Thanh mà nói: "Nhà hai bác chẳng có gì. May mà em nó biết tự thân vận động, ngày ở Hà Nội vừa học vừa làm thêm, cuối cùng cũng kiếm được cái nghề". Thanh rưng rưng cảm động. Anh đã gặp người bạn đời lí tưởng. Tươi lành hồn hậu, như cái mầm ứ nhựa từ đất đai thôn dã gắng gỏi mọc lên. Một người làm công việc gắn bó với cỏ cây, rất hợp với mạng mộc tuổi anh, cũng là cái nghề từ lâu anh ưa thích.

Sau những giờ lên lớp, Thanh tha thẩn vạch cây, vạch cỏ trong rừng. Và nằm ệp cả tuần trên đống sách về các loài thực vật mà phải mất công lắm mới tìm mượn được. Anh muốn chia sẻ với người yêu về công việc. Anh phải nắm bằng hết các kiến thức sơ đẳng về cây cối vùng cao. Này cây tam thất có biệt hiệu "công chúa cấm cung" vì kiêu sa, đỏng đảnh, chỉ nép mình sống dưới nhà che. "Tam thất" nghĩa là một cây có ba cành bảy nhánh, mỗi nhánh ba lá, mỗi lá bảy thùy. "Tam thất" còn có nghĩa là cần ba phần nắng, bảy phần râm. Này cây ngọc am gỗ đỏ và tươi như miếng thịt bò, khô rồi hút ẩm liền tươi lại. Này cây gạo là thứ gỗ bộp, ngâm nước phơi nắng thì lại rắn đanh. Rồi vân sam, lãnh sam, thiết sam, chè tuyết, tống quá sủ... Mỗi loài một tí, nhồi nhét tất tật vào đầu.

Anh hào hứng đi gặp Thủy. Hai người ngồi trên con đường đất xẻ qua núi, nhìn sang dải rừng bồ đề trụi lá bên kia thung lũng. Trăng mùa đông đỏ như miếng tiết dính trên ngọn bồ đề khô xác. Khoảng trời xanh tái ngấm ánh trăng ngả sang màu hồng ấm áp. Sương mù dâng lên bồng bềnh như khói trắng cũng nhuốm một màu hồng dịu dàng. Thủy ngồi co chân trên đám cỏ đẫm sương, nghe Thanh say sưa nói về các loài cây với vẻ mặt dửng dưng, dường như chúng chẳng liên quan gì đến cô cả.

- Em không yêu cây cỏ à? - Thanh ngạc nhiên hỏi.

- Sống giữa đồi núi, nhìn thấy cây mãi cũng nhàm. Bây giờ em chỉ muốn nhìn xe nhìn người, nhìn những toà cao ốc thôi.

- Hồi đại học, em được học chuyên về thực vật chứ? Điểm các môn của em có cao không? - Thanh im lặng rồi hỏi dò.

- Bọn bạn cùng phòng em cắm đầu vào học, còn em chỉ giỏi "quay phim". Môn nào cũng làng nhàng sáu, năm, nhưng đều qua hết. Quan niệm sống của em là làm cách gì cũng được, miễn đạt mục đích mà mình không phải tốn nhiều công.

Sau câu nói ráo hoảnh của người yêu, Thanh buồn giận mấy ngày. Đó là lần đầu tiên giữa hai người lộ ra sự vênh lệch. Nhưng sức say đắm của nụ hôn và những nồng nàn thể xác dễ làm người ta nguôi quên, mau chóng khoả lấp mọi nứt rạn. Anh cũng tin là Thủy nói đùa để thử mình.

Ở trạm bảo vệ thực vật, anh gặp nhiều khách của Thủy đến chơi. Đi đường, gặp ai cũng thấy họ tươi cười với Thủy. Thấy Thanh có vẻ nghĩ ngợi, Thủy cười: "Càng quen biết nhiều, được nhiều người quý, càng tốt chứ anh". Có lần mở cuốn sổ của người yêu, anh thấy Thủy viết: "Chỉ ba mươi phần trăm của thành công là do tài năng, còn bảy mươi phần trăm là do các mối quan hệ". Anh băn khoăn. Rồi lại nghĩ: ừ mà thời đại này, con gái cũng cần năng động.

Thanh đổ vui buồn vào chữ nghĩa. Con chữ nhọc nhằn, rướm máu. Lục lọi bản thể mình, rút gan rút ruột mình vứt lên mặt giấy xem nó thật giả thế nào. "Viết đi, viết bằng một trái tim nóng và một cái đầu lạnh. Chơi mọi thể loại. Kiên nhẫn một thời gian, nếu không le lói gì hơn thì vứt bút đi và chấp nhận mình bất tài". Lời anh Hoàng thổi bùng ngọn lửa xanh đam mê mãnh liệt từ lâu vẫn cháy âm ỉ tận đáy lòng. Thanh găm mình vào giấy, viết. Bất lực. Bi quan. Hi vọng. Anh Hoàng liên tục chửi mắng, động viên. "Rứt bớt những câu, những đoạn bạc phếch, lòng thòng đi!". "Viết gì thế này? Bới cả bài không tìm được một câu có nhung có tuyết". "Cái này khá nhưng hơi loãng. Biết cô nén lại thì đóng đinh được vào người đọc"... Một ngày kia, những cuộn báo biếu như én xuân tới tấp liệng về. Từ thủ đô, từ tỉnh. Thanh hứng khởi, ngồi xuyên ngày thủng đêm, có hôm viết đến nóng cả ngòi bút. Người này kẻ kia nhìn anh, tò mò, bĩu môi, nhếch mép. Mỗi lúc buông bút nhìn ra mảnh vườn hoe hoắt nắng, bóng Huyền cúi lom khom, nhìn bãi cỏ be bét phân trâu, vi vút ruồi nhặng, càng sục sôi ý chí làm một điều gì đó vượt thoát lên khỏi cái tù đọng hàng ngày.

Huyền có chửa với Tân đã được mấy tháng. Người nhỏ gầy mang cái bụng lùm lùm, trông cô nàng như cái cây còi cọc mà phải đeo lủng lẳng một cái quả dị dạng quá to. Cổ Huyền ngẳng ra, xanh rớt. Tân thì mặt sạm lại, già hẳn đi, trên đầu thòi ra mấy sợi loe hoe bạc, xám tro. Anh ta đang lo giải quyết thủ tục li dị với người vợ làm ruộng ở quê để cưới Huyền và chạy chọt ngược xuôi để không bị kỉ luật, giáng chức hiệu trưởng. Cả hai lầm lì, không ai nói với Thanh một lời. Sau giờ làm việc, ngôi trường đã vắng lại càng vắng. Trời Xênh Mùa Ca hiu hắt buồn. Huyền ngồi thu lu trong phòng, ôm bụng. Con gà mái Huyền nuôi mới chết vì bị con trống của Tân cưỡng đạp quá nhiều. Con trống khoẻ mạnh và tàn nhẫn, mỗi lần đạp mái, nó lao lên lưng con kia ào ào như bão. Mỏ sắc bổ toé lửa xuống đầu con mái, kẹp mào nó ghì sát đất, rồi ung dung phòi ra cái sợi loăn xoăn dưới bụng. Con mái bẹp rúm, mắt đờ ra tuyệt vọng trong cơn mưa gió tơi bời. Huyền xót gà mình, xui Tân thịt con trống dâm ác. Tân bênh con trống, đổ tội con mái nhu nhược. Hai người giận nhau một tuần, rồi con mái của Huyền trụi sạch lông đầu, tím sọ tím mào, ngật cổ ra chết. Huyền tin là điềm báo mình sẽ chết như con gà, thương thân nằm khóc ti tỉ. Rồi cùng Tân làm thịt gà, dấm dúi ăn với nhau, không mời Thanh một miếng. Thấy Thanh đi ngang qua phòng, Huyền ra đóng cửa lại. Thanh xuống ven suối nhổ rau má, tha thủi nấu ăn một mình. Đã lâu rồi Thanh không góp gạo ăn cùng Tân và Huyền. Dạo còn ăn chung, vào bữa thấy hai người lạnh nhạt, vừa lặng lẽ nhai vừa để mắt xem ai ăn nhiều ăn ít, Thanh tự ý xin rút. Vừa uất nghẹn muốn khóc, vừa muốn đứng giữa sân trường gào đến tận trời xanh về cái tủn mủn, nhỏ nhoi thảm hại của con người.

Một buổi sáng đẹp trời, Thanh nhận được thông báo về quyết định tuyển dụng anh làm biên tập viên tại toà báo tỉnh, kèm lá thư của anh Hoàng. "Vậy là một que diêm khuất chìm đã loé sáng. Tổng biên tập rất khen. Anh tin chú sẽ trở thành một nhà báo chân chính". Thanh chạy lên đồi, qua những chỗ từng ngồi với Dông thuở trước. Gió thổi khô nước mắt. Trời trên đầu rợn xanh. Xênh Mùa Ca ơi, ngày mai xa rồi. Lòng chộn rộn rối bời khi nghĩ đến Thủy. Mình đi, còn em ở lại với núi đồi? Niềm vui, nỗi lo chưa kịp lắng, ít ngày sau Thủy báo cho anh một tin bất ngờ: "Em được nhận ra công tác ở sở nông nghiệp rồi".

Tay trắng lặn lội ở xó núi này, Thủy lấy tiền đâu mà xin ra được sở? Thanh sững sờ thán phục. Mùa thu năm ấy, kẻ trước người sau, cả hai bỏ lại Xênh Mùa Ca mờ khuất ngàn xanh, ra thành phố.

***

Buổi tối, người ngồi rải rác quanh cái hồ công viên trong khu trường đại học. Trên ghế đá, trên cỏ, ở gốc cây. Chủ yếu là những đôi trai gái. Mặc dù có cái biển "Nghiêm cấm những hành vi thiếu văn hoá" cắm trên cỏ, nếu để ý, vẫn thấy đây đó những bàn tay bí mật lùng sục trong ngực, dưới bụng nhau. Có bàn tay rút ra, kín đáo quệt vào ghế đá.

Thanh đã đi quanh hồ mấy vòng. Thỉnh thoảng lại nhớn nhác. Ai đó hao hao giống Thủy, mà không phải Thủy. Qua đoạn đường tối gần dãy nhà kí túc xá, gặp đôi trai gái đang ghì siết, vật vã dưới lùm cây rung giật, mường tượng ra gương mặt Thủy lại rùng mình. Khu vực này không có nhà nghỉ nên đêm trước anh đã phải bắt xe bus vào nội thành. Vào một khách sạn, một mình nằm sấp trên giường, hộc lên chát đắng. Trong mê man tưởng tượng, chà miết môi mình lên tấm thân loã thể màu mật ong. Thứ mật đắm say đầu độc. Thứ màu ma mị giết người.

Thủy về trường này học cao học đã được nửa năm, do cơ quan cử đi sau một năm công tác. Một thời gian dài đột nhiên bặt tin tức của người yêu, Thanh lo lắng đi tàu từ miền núi về đây tìm Thủy. Thấy anh, mặt cô ta hơi biến sắc. Hai người ngồi với nhau tại quán cà phê ở cổng kí túc xá. Không khí nặng nề. Gió thổi dọc dãy xà cừ, như tiếng thở dài xao xác. "Tôi và anh rất khác nhau. Anh sống cao quý, có lí tưởng, còn tôi là người của đời thường nên không hợp". Thủy dửng dưng nhìn ra hồ, buông mấy lời khô lạnh. Màu mận chín bầm đen lại, và nét khinh bạc hằn trên môi mắt để lộ chân cốt một con người còn khá trẻ nhưng đã quá trải đời.

Thanh đến phòng Thủy trong khu nhà ở của học viên sau đại học lúc Thủy đi vắng. Một cô gái tiếp anh với vẻ miễn cưỡng. Một cô khác trẻ hơn, có gương mặt hiền hiền đang mải viết gì đó, thỉnh thoảng lại kín đáo nhìn khách. Cô ta có vẻ ái ngại cho Thanh. 

- Thủy quan hệ rộng, nhiều bạn lắm. Nó thường chơi với người có tiền.

- Tôi tò mò một chút... Thủy có người yêu ở dưới này, phải không?

- Nó sống kín lắm nên có người yêu hay không phòng em cũng không biết. Hỏi, nó chỉ cười. Có những lần nó khoác túi bảo ra chỗ hẹn nào đó gặp bạn gái rồi đi cả đêm không về.

- Tôi vừa gọi vào máy Thủy nhưng không liên lạc được.

- Nó vẫn dùng hai sim thay đổi. Nhưng có đêm nó không về, bọn em gọi vào cả hai số thấy đều tắt máy.

Thanh như người mất hồn. Vào quán, gọi bia, một mình uống suốt buổi chiều. Bơ vơ, không người quen. Thèm được dốc lòng ra với một ai đó. Chợt thấy cô gái mặt hiền đi qua, anh mời cô vào uống nước. Thoạt đầu còn dè dặt, sau thấy anh chân thành, đau khổ, cô cũng cởi mở dần. Qua những lời kể của cô gái, trong tâm tưởng Thanh lờ mờ hiện lên quá khứ của một con người...

- Hồi sinh viên, em ở cùng phòng trong khu nội trú với Thủy. Trong số tám đứa ở cùng, Thủy là đứa kín đáo, lặng lẽ nhất. Qua cách sống của Thủy, chúng em đoán nhà Thủy nghèo và hình như mỗi tháng gửi cho nó rất ít tiền. Nhưng Thủy chẳng bao giờ kêu ca, đặc biệt, Thủy hà tiện với bản thân nhưng không keo kiệt với bạn. Có khi khát lắm không dám uống một cốc nước mía, nhưng lúc cần vẫn sẵn sàng khao cả phòng ăn chè. Nhờ cái tính sòng phẳng, biết sống mà không ai ghét Thủy. Sang năm thứ hai, Thủy thường xuyên đi đâu đó vào buổi tối. Thỉnh thoảng dịch vụ điện thoại của kí túc xá lại gọi Thủy phòng 3.6 nhà A1 xuống nghe điện. Chúng em hỏi, nó cho biết đang giữ một chân bán hàng ca đêm ngoài thành phố. Nhiều hôm khuya lắm Thủy mới về, nằm rũ ra nhìn chòng chọc lên trần nhà. Có hôm nôn thốc tháo ra những sợi xanh xanh vàng vàng trong buồng tắm. Chúng em nghi ngờ, rồi một lần đóng cửa phòng lục trộm cái túi xách nó thường mang theo, thấy son phấn, nước hoa, kẹp vỉ thuốc và một hộp giấy nhỏ có in hình cô gái mặc đồ lót. Chúng em ngây thơ bóc cái hộp ra xem, kinh ngạc... Cả phòng im lặng, không ai nói, nhưng ai cũng hiểu nó thường đi vào buổi tối làm gì.   

- Vậy nó học vào lúc nào?

- Nó là thần quay cóp. Sách vở để mốc, nhờ cái tài nhanh tay nhanh mắt trong phòng thi mà ít khi bị trượt. Năm cuối nợ hai môn, nó mời thầy giáo đi nhà hàng một buổi. Chẳng biết còn làm gì nữa, rồi cũng đủ điểm ra trường.

Thanh ngồi lặng đi một lát rồi hỏi:

- Những ngày học cao học này, em có biết Thủy thường đi đâu không?

- Em không quan tâm. Những đứa chưa chồng như nó và em, có "bay hơi" cả tuần cũng chẳng ai để ý. Nhiều bà có chồng con mà về đây còn chơi bời khét tiếng, cứ chập tối là mất tích, nữa là.

***

Đã khuya. Thanh ngồi dưới thân tượng Lomonosov trong khuôn viên. Mặt hồ tối thẫm, hiu hiu gió. Người chơi quanh hồ về cả, bốn bề vắng ngắt. Có ánh đèn pin của người bảo vệ quét vào các gốc cây. Thanh e ngại nép mình vào bệ tượng.

Anh đã lỡ chuyến tàu đêm lên miền ngược và cũng không kịp bắt xe bus vào nội thành. Đêm cuối ở khu trường đại học này, anh phải lấy thân nhà bác học làm chỗ tránh sương tránh gió. Suốt đêm, anh trông thấy người con gái ấy. Cô ta đứng trên cây cầu sắt lộng gió, vàng vọt ánh đèn khuya. Một bóng ma tạt lại, theo cô vào sau mấy bức tường bỏ hoang. Trong đó ẩm ướt và sực mùi xú uế. Ở góc tường, gián tụ thành đám đen sì. Dưới những mẩu gạch vỡ, giun to tím ngắt cựa quậy, giun bé đo đỏ cuộn mình. Giấy vương trăng trắng trong đám cỏ xanh rì, và nước đọng ở chân tường lép nhép. Trên tường, hai cái bóng nhập làm một rồi chầm chậm tách ra. Như trong một cuốn phim, bỗng rực rỡ ngôi lầu sáng nhoáng. Cô sinh viên run rẩy trong đèn tím đèn hồng. Quần áo thay vội, phấn son quệt vội ở phòng chờ. Những vòng, nhẫn, dây chuyền, hôm xưa còn đau đáu thèm khát. Những cuộc chơi, bữa tiệc, hôm qua còn mơ ước xa vời. Trên tấm ga trắng trải giường, như tấm thảm thần kì, tất cả biến thành hiện thực.

Nhìn về phương bắc, anh lại thấy người đàn bà đẫy đà ngồi trong căn phòng máy lạnh. Ngày ngày chui ra chui vào những chiếc xe hơi bóng lộn. Đường công danh nhẵn nhụi, phẳng phiu, lấp lánh văn bằng nhãn mác. Ít ai nhớ ngày xưa cô từng hít phân trâu phân ngựa ở vùng cao, cũng như rất ít người biết cô rời Xênh Mùa Ca ra tỉnh bằng con đường nào.

Thanh ngước nhìn Lomonosov. Trong đêm, mắt ông mờ sương, tóc như những cuộn mây sũng nước. Vầng trán minh triết gợn sóng mênh mông trùm lên những thân phận nhỏ nhoi mang danh trí thức. "Đừng bận lòng vì những thứ đoản mệnh, nhất thời. Đi qua những tro tàn, ngày mai nhìn xuống chân mình cậu sẽ thấy lấm toàn bụi quý. Chúng sẽ hoá thành con chữ trong những bài báo và tác phẩm của cậu, như những hạt vàng ròng" - Lomonosov thì thầm. Thanh cảm động ôm lấy tấm thân lạnh buốt sương đêm của nhà bác học. Tấm thẻ nhà báo trong túi ngực anh nóng rực. Một đêm không đơn độc trôi qua...

Phạm Duy Nghĩa

(Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội)

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Đi thuyền ra cửa Ba Lạt

Văn xuôi 2 ngày trước

Dốc làng thân thương

Xem Tin mới 1 tuần trước

Ngõ quê một lối đi về

Văn xuôi 1 tuần trước

Sau màu đỏ tháng Tư

Văn xuôi 1 tuần trước

Mưa mùa hạ

Văn xuôi 2 tuần trước

Nhớ Tết Đoan Ngọ xưa

Xem tin nổi bật 2 tuần trước