Thứ bảy, ngày 21 tháng 06 năm 2025
02:24 (GMT +7)

Sli, lượn - tiếng ca bất hủ của người Việt Bắc

Vài nét về sli, lượn

Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền trên đất nước Việt Nam đều có các làn điệu dân ca riêng. Bắc bộ có chầu văn, ca trù, cò lả, quan họ, hát xoan, trống cơm, xẩm…; Trung bộ có ví dặm, ru con, lý đất giồng, bắc kim thang, lý cây bông, lý ngựa ô, lý quạ kêu, lý chiều chiều, lý bông dừa, lý con sáo, lý qua cầu, dặm xẩm, dặm nối, dặm kể…., Dân tộc Tây Nguyên có hát dân tộc Chăm, dân Tộc Khơ Me, hát Aday, hát ba sắc… Riêng vùng Việt Bắc mà đại đa số là người Tày và Nùng có 2 làn điệu dân ca sli, lượn nổi tiếng cả nước.

Hát lượn tập thể
Hát lượn tập thể

Người Thái Nguyên vốn rất gần gũi với người dân tộc thiểu số, lại từng là một trong sáu tỉnh Việt Bắc nên lâu nay những làn điệu dân ca trầm ấm, thiết tha của các làn điệu sli, lượn đã trở nên quen thuộc. Nhưng có lẽ để hiểu thật sâu về các làn điệu này thì không nhiều người nghiên cứu kĩ.  

Trước hết, xin bàn về thuật ngữ sli và lượn. Đã có nhiều trao đổi về định nghĩa sli khác nhau, nhưng tôi xin được nêu ý kiến của nhà nghiên cứu văn hóa Vi Hồng, một người đã có nhiều năm tháng cất công đến nhiều vùng sli, lượn của người dân Việt Bắc (cũ) để sưu tầm, tìm hiểu, so sánh, đánh giá về hai loại dân ca này. Theo Vi Hồng, sli có nghĩa là "thơ". Tôi cho đây là một ý kiến hợp lí và xác đáng, vì nó lột tả được chất trữ tình trong nội dung ca từ của những câu sli. Xa xưa, hầu như mỗi dân tộc đều có "thơ" (dân gian) để nói lên tâm hồn của dân tộc mình. Người Kinh có ca dao… Người Nùng dùng từ sli để chỉ toàn bộ dân ca của họ. Còn thuật ngữ lượn thì tỏ ra phức tạp hơn. Tuy người Tày cũng dùng từ lượn để chỉ toàn bộ dân ca của mình, nhưng gốc nghĩa từ lượn là gì thì đến nay vẫn là câu trả lời bỏ lửng, nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, cả sli và lượn bao đời nay đã trở thành những làn điệu dân ca đặc sắc của người Tày, Nùng nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung thì đã là một sự khẳng định.

Sli, lượn là những làn điệu dân ca không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của dân tộc Tày, Nùng. Nếu phân chia rành rẽ thì sli là của người Nùng, lượn là của người Tày. Nhưng sli và lượn từ xưa đã luôn gắn với nhau như một cặp bài trùng. Sli, lượn được người Tày và người Nùng ở rất nhiều vùng dùng chung, hát chung. Trong các cuộc sli đều có lượn và ngược lại trong các cuộc lượn đề có sli. Nhưng lượn và sli vẫn có những điểm khác nhau. Phong cách nghệ thuật của sli thường nói thẳng, trực diện còn của lượn thường nói kín, nói xa, nói bằng hình tượng…

Như đã nói, sli lượn là tiếng nói tâm hồn của dân tộc Tày, Nùng. Trên trái đất này, bất kể là người dân tộc gì, đất nước nào thì con người vẫn luôn có nhu cầu nhảy múa, hát hò để bộc lộ tâm hồn của mình. Chính từ trong cuộc sống lao động trên nương rãy, núi rừng, trong sinh hoạt cộng đồng hoặc gia đình, trong tình yêu, trong các nghi lễ… Có thể nói, những lời sli, tiếng lượn được nảy nở, sinh ra từ những nẻo rừng, từ đường cày, nhát cuốc, từ cây lúa, cây ngô, từ ánh lửa bếp nhà sàn, từ ánh mắt, nụ cười của những gái nụ, gái hoa rồi hình thành cả về ca từ lẫn giai điệu. Vì vậy, tiếng lượn, lời sli suốt bao đời nay cứ tiếp nối đời nọ sang đời kia không dứt, trở thành một kho tàng quí báu cho cả dân tộc.

Xa xưa, thường vào ban đêm, con người được thư thả, nghỉ ngơi nên thường cùng nhau sli, lượn. Gọi đó là "đêm lượn". Đêm lượn thường có tổ chức bài bản, có nghi thức. Ngoài ra, người Tày, Nùng thường sli, lượn vào những khi đang lao động như đang làm ruộng, làm nương bãi, hoặc trong các chợ phiên, vào dịp các nam thanh, nữ tú gặp gỡ nhau. Nhưng cuộc sli, lượn này thường xảy ra một cách bất chợt, không có hẹn trước. Họ nhìn thấy người, thấy cảnh núi đồi, sông suối, ruộng đồng, bãi chè, nương dâu, đồi cọ… mà tức cảnh sinh tình, mà ngẫu hứng bật ra những ca từ sli, lượn.  Ngoài sli, lượn tập thể, khi trai gái gặp nhau, họ có thể sli, lượn, "trò chuyện" với nhau bằng lời sli, tiếng lượn để ngỏ ý, tâm giao. Người Tày, Nùng còn có thói quen dùng lời sli, tiếng lượn để thay cho lời chào hỏi bình thường. Song song với lối diễn xướng tập thể hoặc đôi lứa, người Tày, Nùng còn có lối sli, lượn một mình, nghĩa là tự nói chuyện với hoa lá, cỏ cây, với muông thú,... như nói chuyện với người yêu khi vắng mặt,  đó là  nét đặc biệt mà ít dân tộc có được. Có lẽ vì thế mà từ trong sinh hoạt cộng đồng sinh ra những ý tứ đặc sắc rất bất ngờ (không loại trừ yếu tố vô thức) mà đã để lại những ca từ bất hủ, lưu lại ngàn đời sau không cũ.

Từ cái kho tàng khổng lồ, vô tận ấy, nhiều nghệ nhân và các ca nương đã tạm phân loại thành các thể loại khác nhau như: lượn then (lượn tiên, lượn thanh cao như tiên giới, tiên cảnh); lượn nàng ới (lượn gọi bạn tình…); lượn cọi (cùng gần giống với lượn nàng ới, là lượn gọi bạn); lượn sương (lượn những lời nói yêu thương)… Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Vi Hồng thì chỉ nên phân thành hai loại chính là sli, lượn tự sự và sli, lượn trữ tình. Sli, lượn trữ tình bao gồm những lời trò chuyện tâm tình, những giãi bày từ trong trái tim con người. Sli, lượn tự sự là những ca từ mang yếu tố sự kiện, những câu chuyện được kể ra…

Người Nùng xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ hát sli khi thu hoạch chè
Người Nùng xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hát sli khi thu hoạch chè

 Một số ca từ mang màu sắc trữ tình của dân ca sli, lượn

Có thể phân chia ca từ sli, lượn thành các đề tài như đề tài về vũ trụ, thiên nhiên, đề tài phản ánh hiện thực cuộc sống sáng tạo của con người, đề tài tình yêu nam nữ, đề tài về sự thấp hèn… 

Xin dẫn một số ca từ mang tính phổ biến.

Đề tài thiên nhiên, vũ trụ:

Người Tày Nùng không quan sát thiên nhiên, vũ trụ bằng con mắt khoa học mà bằng cái nhìn trực tiếp. Những hình tượng như trời, mây, sông núi, trăng sao, sấm sét… đều được họ nhìn bằng cảm quan. Theo nhà nghiên cứu Vi Hồng thì "Những hình tượng này chính là biểu hiện ước mơ của người Tày, Nùng, muốn chiếm lĩnh cả vũ trụ, làm chủ vũ trụ, đồng thời họ muốn trải tâm hồn mình theo bề cao rộng của vũ trụ". Ví như đứng trước các đấng linh thiêng, con người không cần cúi rạp mà là sự ngẩng đầu để chiêm ngưỡng, ngắm nghía các "ngài" theo nghĩa như ngắm những vật đẹp:

Cố tìm lối tôi đến thăm chùa

Tam quan lại có cửa Quỳnh Tương

Trong chùa có quan nhân, thánh hiền

Ngọc hoàng ngồi giữa đền ngôi cao

Bên trái quan Nam Tào mặt đẹp

Chúa sinh xuống đất khách quốc gia

Bắc Đẩu ngồi bên phải mặt xấu

Điểm số khắp hạ giới dương gian

Tôi là người khách mường xin chúc.

 Dưới con mắt của con người miền núi, cảnh vật thiên to lớn, hùng vĩ nhiều khi chỉ trở thành những vật trang điểm cho cuộc sống con người:

Đưa mắt xôn xao mây về trời

Đầu nguồn núi Kì Lân chầu thực

Rồng xanh kéo đến hầu náo nức

Nhiều khi ca từ trong sli, lượn thường biến hóa hoặc dựa vào những hiện tượng nắng, mưa, sương, gió, mặt trời, mây mù, trăng sao… để trở thành những tình cảm của con người. Trong các hiện tượng mang tính vũ trụ thì ánh trăng luôn luôn là một hình tượng sâu sắc nhất:

Xa em như xa ánh trăng rằm

Mất trăng còn gặp trăng từng tháng

Xa em, em khuất bóng nẻo xa

Trông én, én bay vào trời

Trông sao, sao khuất vời mây xanh

Đôi khi họ lí tưởng hóa con người mà họ yêu thương bằng những hình tượng mang tính vũ trụ:

Thân anh như cun cút bãi hoang

Thân em như phượng hoàng vượt gió

Phượng hoàng bay mở cửa tầng mây

Một đoạn cây chọc mặt trời sao rụng

Đề tài tình yêu nam nữ

Cũng như nhiều dân ca khác, đề tài về tình yêu nam nữ trong sli, lượn luôn là đề tài phong phú nhất.  Người miền núi thường có thói quen so sánh, so sánh vật thể này với vật thể kia, đặc biệt là họ rất thích so sánh người với các loại cỏ cây, hoa lá, chim bướm… Đó chính là hình ảnh của tình ái, yêu thương:

- Thân em như rau piêu mặt nước

Mưa xuống nó được mát nở tươi

Hoa nở nó liền rời cánh úa

Cây nở sớm hãy bỏ

Cây nở muộn hãy còn

Không chê hoa bóng đêm xâu lấy.

 

- Thân em như hoa  kim, hoa cúc

Thân em như hoa guột trên đồi

Nửa đêm sương bời bời buông thả

Rồi em sẽ chết lả với sương

Tình yêu nam nữ của người Tày, Nùng thường hết sức mãnh liệt và thủy chung, rất khó chia cắt:

- Anh biệt em không lìa

Anh lìa em không biệt

Đôi ta không vợ chồng cũng bạn

Thương nhau thương cho nặng

Nhớ nhau nhớ cho chặt

Bao giờ nai chê rừng mới thôi

Bao giờ trâu chê cỏ mới bỏ

Múc nước được đầy rổ mới quên

Thà chết em không buông anh về

 

- Dù có chết em không thả anh về

Thả anh như bỏ muối xuống nước

Muối xuống nước còn lẫn vào với cát

Thả anh đi như thả trăng rằm

Thả trăng, mỗi tháng thấy một lần

Thả anh đi đường xa cách trở

Giá là chim, em bay đến thăm nhà

Bay đến vườn, đậu cành cây trước cửa

Anh ra vào được thấy rõ anh

Ngày xưa, vấn đề lễ giáo phong kiến luôn là những ý thức cản trở luyến ái lứa đôi, nhưng sức mạnh phản kháng của tình yêu đã được bộc lộ rất rõ trong các ca từ sli, lượn:

Thương nhau hãy kéo thuyền ngược suối

Để cá tôm lên hội trời cao

Trên ngọn cây đa xây ao thả cá

Thả được cá mới hả dạ này

Hoặc:

Không lấy được nhau lên trời kiện số

Không lấy được nhau em lên trời đòi nợ.

Hát Lượn nói về tình cảm gia đình được biểu diễn bên cầu thang nhà sàn người Tày
Hát Lượn nói về tình cảm gia đình được biểu diễn bên cầu thang nhà sàn người Tày

Đề tài về thân phận con người                                                                                          Trong sự phân hóa giai cấp, xã hội không tránh khỏi sự xuất hiện những thành phần "cao qúy", thành phần "thấp hèn", sự giàu/ nghèo… Vì vậy, trong ca từ sli, lượn, tuy không nhiều, nhưng cũng phản ánh khá trọn vẹn chủ đề này. Nó là sự phản ánh khách quan về những người bị bóc lột, bị coi thường trong xã hội. Đồng thời cũng biểu hiện đức tính khiêm nhường/ tự ti của người nghèo khổ… Các ca từ này thường lấy hình tượng những con vật nhỏ bé, nhu mì để nói hộ lòng mình như con rùa, con cun cút, con đom đóm, con nhện, con cóc, con khỉ hoặc các loài cây dại như hoa guột, giẻ rách, dây leo…

- Thân em như mẫu đơn chân dậu

Thân anh như kim quí trong vườn

Kim quí có người trông người giữ

Mẫu đơn sống bợ đỡ ngày đêm

 

-  Vợ anh mặc áo kép đẹp gái

Thân em như nhện cái dưới trăng

 

- Thân em như fặc fiền vách núi

Thân em như cỏ lụi giữa đồng

Cỏ lụi không móng trâu đày, giẵm

Cỏ rọn thân ngắn ngủn trâu chê.  

Tuy nội dung ca từ sli lượn còn ảnh hưởng ít nhiều về ý thức hệ, nội dung và nghệ thuật cũng còn có những hạn chế nhất định, nhưng sli, lượn là tiếng ca bất hủ của người Tày, Nùng vùng Việt Bắc. Nó bộc lộ một tâm hồn không bao giờ chịu cằn cỗi của cả một dân tộc, dù cuộc sống đầy chông gai, trắc trở. Từ bao đời nay, qua bao thăng trầm, bể dâu nhưng người Tày, Nùng vẫn giữ luôn gìn giữ và phát triển nguồn dân ca quí giá của dân tộc mình.              

Vào ngày 9/2/2021, cùng với nhiều thể loại dân ca trên cả nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 830 công bố “Hát Sli của người Nùng", xã Xuân Dương, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn” trở thành Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Đó là sự khẳng định tính độc đáo và tầm cao của loại hình dân ca này. Đồng thời, sẽ mở ra cơ hội phát triển văn hóa du lịch của toàn tỉnh trong tương lai.

Đào Việt Hải

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục